Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lòng Từ Bi

02 Tháng Mười Hai 201511:00(Xem: 13207)
Lòng Từ Bi
LÒNG TỪ BI


Toàn Không

lòng từ bi


Quán Từ Bi để trừ lòng sân giận hận thù



Từ là cho vui, Bicứu khổ diệt khổ, Từ Bi là cho vui diệt khổ cho tất cả mọi loài chúng sanh, đó là hành động lợi tha cứu đời. Từ Bi không phải là thụ động yếm thế nhu nhược mà nhiều người lầm tưởng rằng hễ có lòng từ bi, ai muốn làm gì dù phải trái cũng im lặng nghe theo. Thực ra lòng từ bi khiến người ta vận dụng tâm tư khả năng phương tiện để làm cho mọi người mọi loài thoát khổ được vui, Từ Bi bao hàm ý nghĩa rộng lớn vô bờ bến, vì cho vui diệt khổ không những về vật chất mà cả tinh thần, không những với loài người mà còn bao gồm tất cả chúng sinh.



I). Tại sao phải có lòng Từ Bi?

Tính sân giận oán hờn của con người là một nguyên nhân tai hại lớn gây ra khổ đau cho người và muôn vật. Từ việc nhỏ bé gây đổ vỡ mất hạnh phúc giữa những người thân như vợ chồng anh em, họ hàng bạn bè, cho đến việc lớn như chém giết khủng bố chiến tranh giữa các phe phái, các nước, màu da, tôn giáo, v.v… Tất cả đều do sân hận mà ra, nó nằm sẵn ở trong mỗi con người, có dịp là nó bùng nổ. Vì thế từ thời tiền cổ đến bây giờ, giết chóc chiến tranh luôn luôn xảy ra không ở nơi này thì ở nơi khác, không sao dứt được cảnh khổ; Phật giáophương cách dùng lòng Từ Bi để xóa đi, diệt đi lòng sân hận oán hờn, đó là phương thuốc diệt khổ cho vui, vì thế chúng ta cần “quán Từ Bi” là vậy.



II). Từ Bi cho vui cứu khổ ra sao?

Người có lòng từ bi không bao giờ sát sinh người và vật, người Phật tử chân chính không giết súc vật để ăn, không giết súc vật để vui như đi săn bắn câu cá; chính nhờ lòng từ bi mà cuộc đời thêm vui bớt khổ, sự chém giết giảm đi bớt tàn khốc, người và muôn vật coi nhau như anh em họ hàng.

Nhưng chỉ cho vui và diệt khổ trong hiện tại, chưa đúng với ý nghĩa của nó, người Phật tử còn phải nghĩ đến cho vui và diệt khổ tương lai nữa, tức là phải gây nhân vui cho tương lai và diệt nhân khổ cho tương lai, làm sao thực hành từ bi ở diểm này? Mọi người đều biết tâm ý là nguồn gốc của mọi hành động thiện ác trong ý khẩu thân, ý điều khiển khẩu nói năng thân hành đông thiện ác. Do đó, muốn gây nhân vui cho tương lai và diệt nhân khổ cho tương lai chúng ta phải tu tâm ý trước nhất. Tâm ý tu rồi thì khẩu thân theo ý mà nói làm những việc tốt, bỏ nói làm các việc ác, vì thế phải chú trọng tu tâm dưỡng tánh là vậy.



III). Từ BiBác Ái khác nhau chỗ nào?

Có người cho rằng Bác Ái rộng hơn Từ Bi, có người cho rằng Bác Ái cũng giống như Từ Bi; để hiểu rõ vấn đề này, chúng ta lần lượt phân tích ý nghĩa của hai danh từ này:

Bác Ái: Bác nghĩa là rộng, lớn, Ái là yêu thương, Bác Ái là lòng thương mọi người; người có lòng Bác Ái thương yêu mọi người, thường cứu giúp người hoạn nạn, ốm đau, khuyết tật, bất bình thường, nghèo khổ từ vật chất đến tinh thần.

Từ Bi, như trên đã giải thích, Từ Bi là cho vui diệt khổ cho mọi loài chúng sanh, nó bao gồm sáu cõi Trời, Người, A Tu La (Thần), Súc Sinh, Ngạ Qủy, Địa Ngục. Nó rộng lớn bao la như thế chứ không chỉ một loài người, nhưng chúng ta thường sống chung và đụng chạm với loài Súc Sinhchúng ta chỉ có mắt thịt không trông thấy bốn loài kia. Từ Bi còn có ý nghĩa cho vui diệt khổ tất cả nguồn gốc ngọn ngành, chứ không phải chỉ xoa dịu cái hiện tại mà thôi, như người làm vườn không phải chỉ cắt các cây cỏ dại mọc hoang, mà phải nhổ tận gốc rễ của cây cỏ dại không cho mọc lại nữa.

Như thế Từ Bi về không gian bao gồm tất cả mọi loài trong sáu cõi, về thời gian bao gồm cả hiện tại và tương lai; còn Bác Ái về không gian chỉ chú trọng một loài người, về thời gian chỉ chú trọng trong hiện tại mà thôi. Nói một cách khác, Từ Bi bao gồm hết nghĩa của Bác Ái, còn Bác Ái không trùm được nghĩa lý Từ Bi rộng lớn.

Cũng cần phân biệt lòng từ bi và lòng yêu thương quyến luyến khác nhau mà đức Đạt Lai Lat Ma thứ 14 đã nói: “Tình yêu thương khắn khít giữa vợ chồng, cha mẹ, anh chị em, họ hàng, bạn bè thân thiết v.v…thường phát xuất từ lòng quyến luyến; khi lòng quyến luyến thay đổi, lòng yêu thương cũng thay đổi hay biến mất luôn, đây không phải là tình yêu thương chân thực.

Tình yêu thương chân thật không phát xuất từ sự quyến luyến, mà phát xuất từ lòng vị tha, như khi thương xót hay động lòng trắc ẩn đối với người nghèo khổ bệnh tật; trong trường hợp này, lòng từ bi của bạn sẽ tồn tại như một sự đáp ứng cho con người bị đau khổ”.



IV). Làm sao để có lòng từ bi?

Muốn huân tập được lòng từ bi, chúng ta phải dùng phương pháp quán tưởng, có ba cách sau đây:

1). Quán chúng sinh duyên từ (quán sát cảnh đau khổ của chúng sanh để phát sinh ra lòng từ bi):

Đây là phương pháp dễ thực hành nhất, khi quán thấy chúng sinh đau khổ mà thành cảm lòng thương xót đưa đến lòng từ bi sinh khởi; chúng sanh ở trong sáu cõi còn đang chìm đắm trong sinh tử phiền não nhiễm ô, chỉ có loài Trời là tốt đẹp hơn cả, nhưng vẫn còn ngũ suy trước khi lâm chung là: Tràng hoa đội trên đầu héo đi, áo choàng dính dơ bẩn, thân mất mùi thơm lại có mùi hôi, thể nữ bỏ đi, không muốn ngồi tòa nữa. Loài A Tu La (Thần) có phiền não cãi cọ, đấu tranh, xung đột, giết chóc, sợ hãi; loài Ngạ Qủy (Ma Qủy) bị đói khát bức khổ; loài đọa Địa Ngục bị giam cầm hành hạ vô cùng đau khổ liên tục lâu dài, như phải nằm trên giường chông, giường sắt nóng đỏ, bị lửa đốt, bị lột da chặt chân tay v.v…thật là khổ cùng cực. Tất cả những loài trên đây, chúng ta không thể trông thấy mà chỉ được biết qua Kinh Phật nói; còn loài Súc Sinh có nạn khổ là ăn nuốt nhau, bị loài người giết để ăn, giết hại cho vui, giết hại vì vô ý, coi sinh mạng loài vật từ lớn đến nhỏ như cỏ rác, nên loài vật khổ biết chừng nào; loài người cũng chịu khổ não từ vật chất đến tinh thần trong mưu sinh hàng ngày, cho đến già bệnh chết, có trăm nghìn nỗi khổ kể sao cho hết được.



Quán như thế nào để phát khởi lòng từ bi?

Đức Phật dạy: “Quán sát tất cả chúng sanh trong sáu cõi đều là bà con thân thuộc với mình”. Chúng tathói quen những gì ngoài ta đều không để ý đến, giờ đây chúng ta bỏ cái vỏ hẹp hòi mà nhận ra rằng:

1- Loài người chúng ta sống trên trái đất này như sống trong một cái nhà lớn, một đại gia đình, không phân biệt màu da chủng tộc, không phân biệt nước này nước kia, không phân biệt tôn giáo này tôn giáo nọ v.v…. Những sự khác biệt ấy chỉ là bề ngoài, vì ai cũng có xương thịt và các cơ quan bộ phận như nhau, cũng đồng sợ khổ thích vui như nhau v.v…

2- Rộng lớn hơn nữa, đối với năm loại chúng sinh khác, chúng ta coi như thành phần trong đại gia đình trong thái dương hệ này; mặc dù khác nhau về hình thức vì khác loài, nhưng cũng là chúng sanh có chung một mặt trời là nguồn sống chung; tất cả đều tham sống sợ chết như nhau, đều biết cảm nhận nỗi vui sướngđau khổ như nhau. Gần gũi chúng ta nhất là loài vật, tuy chúng không thông minh biết nói như chúng ta, nhưng chúng có những điểm riêng đặc biệt của chúng mà có khi ta không có. Chúng cũng biết thông cảm với chúng ta và giúp chúng ta nhiều việc lợi ích, biết đâu rằng đời trước hay đời sau này chúng chẳng phải là anh em bà con chúng ta?

Phương pháp quán này giúp chúng ta mở rộng được cái nhìn hẹp hòi của cái ngã nhỏ bé để thể nhập vào cái ngã to lớn là đại gia đình của toàn thể chúng sinh.



2)- Quán Pháp duyên từ (quán mình và chúng sinh cùng một thể tánh do đó từ bi phát khởi):

Chúng sanh đau khổ là chính ta đau khổ, phép quán này cao siêu hơn phép quán ở trên; ở đây dùng lý trí để quán sát. Lòng từ bi do duyên “pháp tánh”(bản tính chung) mà phát khởi. Hành giả quán sát thấy tất cả chúng sanh cùng mình đều đồng một “pháp giới tánh”(bản tính của chúng sinh), cho nên chúng sinh đau khổ là mình đau khổ, do đó hành giả khởi lòng từ bi cứu khổ ban vui cho tất cả chúng sinh. Đến địa vị này, hành giả không còn phân biệt mình với người, không còn phân biệt thân thích hay người ngoài, và chỉ thấy mình và người có cùng bản tánh (cùng pháp giới tánh) mà thôi; các vị Bồ Tát nhận thấy mình và chúng sinh cùng đồng một bản thể, nên khi cứu khổ không còn phân biệt người đó là ai, và khi làm cũng không chấp mình đã làm. Chúng sanh có khổ thì Bồ Tát có bi, Bồ Tát đã chứng “Pháp duyên từ” chỉ có mục đích làm sao cho chúng sinh hết khổ được vui thôi.



3)- Quán Vô duyên từ (không cần duyên vẫn có từ):

Loại quán này rất cao siêu rất khó thực hành, Vô duyên từlòng từ bi không có tâm năng (làm) duyên và cảnh bị (được) duyên, không dụng công đối đãi giữa mình và người; lòng từ bi đã sẵn sàng trong thể tánh (Phật tính), nó sẵn sàng lan tràn bao la trùm khắp, không chọn lựa phân biệt. Hễ chúng sinh có nhu cầu là có đáp ứng ngay như tình thiêng liêng giữa mẹ và con, cũng như mặt trời mặt trăng chiếu soi cùng khắp không chừa chỗ nào, sự chiếu soi vô tư, không thiên lệch chọn lựa, không phân biệt chỗ dơ sạch, nơi cao thấp. Tâm từ bi luôn luôn sẵn sàng, chúng sanh hễ có cảm cầu là có linh ứng đáp lại.



V). Lợi ích của quán Từ Bi:

Người quán Từ Bi sẽ trừ được lòng sân hận giận hờn, bỏ được lòng tật đố ganh tị, dẹp được ngã chấp hẹp hòi, và đoàn kết được với mọi người; mọi người nếu đều có lòng từ bi, nhân loại sẽ không còn giận hờn giữa người và người, không còn ghét hại giữa chủng tộc này và chủng tộc kia, không còn chiến tranh giữa quốc gia này với quốc gia kia v.v…. Mối liên hệ giữa mọi người, mọi chủng tộc, mọi nước, mọi tôn giáo sẽ được gắn bó cùng nhau xây dựng hạnh phúc; lúc ấy con người vô cùng sung sướng khi thấy quanh mình toàn là bà con quyến thuộc như anh em trong một nhà cùng nhau an hòa.

Từ xưa tới nay, con người trong nhân loại bị đau khổ là do lòng sân hận giận thù gây ra, nếu mọi người biết áp dụng lòng từ bi, sự thù hằn độc ác phải giảm đi, đâu còn việc đầu độc oán hờn vương khắp nơi nơi, mưu lừa dối trá rắc reo nghi ngờ sợ hãi nữa. Nếu mọi người đều có lòng từ bi, đâu còn cảnh tạo bất an chèn ép bức đọa con người, gây khủng bố chiến tranh chết bao sinh mạng; nếu mọi người đều thực thi lòng từ bi, thế giới này là thiên đường vậy.

Trong Tăng Nhất A Hàm, quyển 3, trang 475 đức Phật dạy: “Nếu có chúng sanh tu hành tâm từ, lưu truyền rộng nghĩa của tâm từ, vì người diễn nói, sẽ được qủa báo tốt đẹp là: Ngủ yên ổn không chiêm bao dữ, sống yên ổn không bị ác hại, được Trời Người thương mến, không bị binh đao đạo tặc xâm tổn, không bị lửa nước nguy khốn, được sinh lên cõi trời Phạm Thiên”. Cũng quyển 3 trang 176, đức Phật khuyên khi bị giam cầm chớ khởi tâm ác mà phải khởi tâm từ rải khắp

Trong Tạp A Hàm, quyển 4 Kinh 1253, 1255, 1256, đức Phật dạy: “Số người tu tập lòng từ bi ít như hòn đất trong tay so với số người không tu lòng từ bi nhiều như đất của đại địa này. Có người mang 300 chảo cơm bố thí ba lần sáng, trưa, chiều, công đức bố thí này không bằng một phần muôn ức của người rải lòng từ bi đến khắp cả chúng sinh dù chỉ trong khoảng thời gian ngắn như người vắt sữa bò. Nếu có qủy thần ác muốn đến dò xét tìm chỗ sơ hở của người tu tập tâm từ bi này thì không thể được, mà ngược lại ngay lúc ấy qủy thần kia tự bị thương tổn.

Toàn Không

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5826)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 5002)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4388)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4681)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4722)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5881)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3321)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5290)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2954)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4171)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5315)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4286)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3342)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6376)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5364)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4651)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6270)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6125)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3916)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6051)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4652)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4816)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3405)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6302)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4971)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3562)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3499)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5710)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4269)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 6026)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5270)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3706)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3794)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3723)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3548)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5392)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4045)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4399)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5846)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3146)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3090)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3902)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4882)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3591)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3073)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4607)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4764)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3476)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 4013)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4751)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3597)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3622)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5173)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4182)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3307)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 3016)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3053)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3131)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3130)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3505)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant