Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật giáo đóng góp như thế nào cho vấn đề môi trường

08 Tháng Mười Một 201417:40(Xem: 8694)
Phật giáo đóng góp như thế nào cho vấn đề môi trường
Thích Nhuận Đạt dịch


blankHiện nay có rất nhiều vấn đề về môi trường. Những vấn đề mang tính toàn cầu bao gồm: sự nóng lên toàn cầu, cạn kiệt tầng ozone, nạn phá rừng và giảm thiểu đa dạng sinh học, sa mạc hóa, mưa axít, và ô nhiễm nước biển... Ngoài ra còn có những chất hóa học làm rối loạn tuyến nội tiết, hóa học nông nghiệp, phụ gia thực phẩm, đây là những vấn đề xuất hiện trong khu vực sinh sống. Những vấn đề này trở thành vấn đề nan giải lớn nhất trên thế giới, bởi vì nó phá hủy nền tảng sống của nhân loại trong hiện tại và trong tương lai gần. Người ta đã tiến hành nhiều biện pháp cho vấn đề môi trường. Về cơ bản, những biện pháp này có thể được chia thành hai loại, đó là, phát triển công nghệ và kiểm soát hoạt động con người, ngoài ra còn điều tra những nguyên nhân khác. Mặc dù, người ta cho rằng tôn giáo không thể đóng góp trực tiếp từ quan điểm giống hệt khoa học và công nghệ, nếu tôn giáo đó có thể góp phần cho việc giải quyết những vấn đề, thì đó là một khảo sát về phương pháp có thể kiểm soát được hoạt động con người, tức là chuyển hóa lối sốngý thức về giá trị, khảo sát về đạo đức môi trường, trù liệu về nhận thức đạo đức, khảo sát văn minhchuyển hóa từ quan điểm toàn cầu. Đối với những vấn đề này, sự tham gia tích cực của tôn giáo là khả thi.

    Cho đến hiện nay, chúng tôi đã khảo sát sự đóng góp của Phật giáo cho những vấn đề môi trường như thế nào. Từ những quan điểm căn bản của vấn đề môi trường sẽ gây ra sự đau khổ về thể xác lẫn tinh thần cho tất cả chúng sinh, và nhiệm vụ của Phật giáo là làm giảm bớt và tháo gỡ khổ đau cho chúng sinh. Đó là quan điểm về thiên nhiên và môi trường, nguyên nhân và đặc trưng của những vấn đề môi trường[1], ý nghĩa của giới luật Phật giáo[2], con đường lý tưởng của một nền văn minh[3], những phương pháp lý tưởng của giáo dục môi trường và đạo đức môi trường[4]… theo những quan điểm của Phật giáo. Trong tiểu luận này, để giải quyết những vấn đề môi trường, chúng tôi muốn nêu ra ba điểm, đó là, nhận ra những vấn đề môi trường, xét lại phương thức sống, thực hành và hoạt động để giải quyết vấn đề.

1. Nhận ra những vấn đề môi trường

   Nhiều người nên chia sẻ với nhau về những vấn đề môi trường. Trước tiên, điều cần thiết là nhận ra tình trạng hiện tại và nguyên nhân của những vấn đề này một cách thật sâu sắc. Sự nhận ra vấn đề hiện tại này không thể ra ngoài phạm vi nghiên cứu của khoa học. Tuy nhiên, nguyên nhân của những vấn đề phải được kiểm tra, không chỉ từ sự vận động và vòng luân chuyển của vật chất do hoạt động con người theo quan điểm của khoa học, mà còn từ những nhân tố của xã hội và nhân loại. Kế đến, Phật giáo có thể nghiên cứu nguyên nhân của những vấn đề. Hơn nữa, Phật giáo còn có thể nhận ra vấn đề từ quan điểm sâu sắc hơn của một con người, và có thể đưa ra nguyên tắc phát triển của nhân loại và môi trường. Điều quan trọng là bảo quản môi trường và thiên nhiên thích hợp để nhận ra ý nghĩa và vai trò của chúng. 

1.1. Chủ nghĩa bình đẳng sinh quyển cơ bản trong tất cả sinh vật và tư tưởng cộng sinh

   Đây là một khía cạnh quan trọng trong đạo đức môi trường khi nhân loại, sinh vật và phi sinh vật được nhận thức như thế nào. Đối với Phật giáo, nhân loại, sinh vật và phi sinh vật về căn bản được xem là bình đẳng trong các cấp độ sinh mệnh (life levels). Thuật ngữ các cấp độ sinh mệnh không những chỉ cho ý nghĩa thông thường là mạng sống (life), mà còn chỉ cho năng lực cơ bản như năng lượng sống mà nó hỗ trợ cho chúng sinh. Phật giáo dạy rằng, năng lực cơ bản này có thể được gọi là mạng sống tiềm ẩn trong phi sinh vật. Một khái niệm tiêu biểu của Phật giáo trong việc nhận chân được sự việc diễn ra trong mỗi hiện tượng, tức là sinh vật và thiên nhiên được phát hiện trong khái niệm duyên khởi[5] (engi). Khái niệm này cho rằng một thực thể không thể tồn tại và sinh ra một cách độc lập, mà mỗi thực thể chỉ tồn tại bằng nhiều mối quan hệ hay điều kiện của những thực thể khác. Phật giáo dạy rằng một thực thể không thể tồn tại một cách độc lập, bởi vì sự tương tức tương nhập của tất cả mọi hiện tượng. Mối quan hệ về bản thể (quan hệ không gian) và quan hệ về sự hình thành (quan hệ thời gian) được gắn kết với nhau trong khái niệm này. Khái niệm về thiên nhiên và môi trường được tìm thấy trong khái niệm duyên khởi (Dependent origination) là tương tự với những khái niệm của sinh thái học (ecology). Tất cả mọi thứ được nối kết với nhau bằng cách nào đó.

   Bởi vậy, những quy luật của sự đa dạng sinh học (bio-diversity) và sự cộng sinh (symbiosis) của thiên nhiên và sinh vật là điều cơ bản trong việc duy trì thế giới của chúng ta. Khái niệm duyên khởi (engi) này làm nền tảng cho mọi hiện tượng trong Phật giáo. Nói cách khác, Phật giáo có khái niệm cho rằng sinh mệnh có thể luân hồi, tái sinh (rinne-tensho), và phương pháp lý tưởng của sinh mệnh trong con người và sinh vật là giác ngộ (jobutsu)[6].

   Ở đây, giác ngộ có nghĩa là tình trạng lý tưởng nhất của sinh mệnh và thể hiện cảnh giới của Phật trong sinh mệnh. Sự nhận thức này bắt nguồn từ luận điểm cho rằng tất cả chúng sinh đều có sinh mệnh giống nhau như con người. Bởi vậy, về cơ bản chúng sinh được xem là bình đẳng trong Phật giáo.

1.2. Y chánh bất nhị và nguyên tắc của sự phát triển

    Một môi trường chỉ có thể được định nghĩa khi có một chủ thể tương thích. Quan điểm môi trường trong Phật giáo không chỉ nhận ra mối quan hệ của mỗi sinh vật và vật chất vô cơ giống như sinh thái học mà còn nhận ra tầng sâu hơn của sinh mệnh. Đây là quan điểm về nghiệp (karma), chủ thể và môi trường đều là sự biểu hiện của nghiệp. Phật giáo có khái niệm y chánh bất nhị (依正不二, E-shō-funi, e: non-duality of living beings and its Environment)[7]. Khái niệm này giải thích mối quan hệ giữa chủ thể và môi trường của nó. Y chánh (依正, E-shō) là gọi tắt của thuật ngữ tiếng Nhật y báo (依報: ehō) và chánh báo (正報, shōhō). Từ báo (報, ) có nghĩa là kết quả rõ ràng, hay kết quả của nghiệp. Chánh báo chỉ cho chúng sinh hay thế giới chủ thể. Những kết quả nghiệp quá khứ của một chúng sinh cá nhân phản ánh chính chúng trong cả sinh mệnh chủ thể và môi trường khách quan. Bởi lẽ, thuật ngữ bất nhị (不二, funi) có nghĩa là hai trong hiện tượng nhưng không phải là hai trong bản chất. Y chánh bất nhị có nghĩa là sinh mệnh và môi trường của sinh mệnh là hai trong hiện tượng riêng biệt nhưng không phải là hai trong bản chất căn bản của chúng. Cả chủ thể và môi trường cùng tồn tại hay bất nhị trong một tình huống, là một kết quả của nghiệp.

    Từ quan điểm của khái niệm về nghiệp của Phật giáo, môi trường được coi là xuất phát từ chủng tử nghiệp (業種子,gō-shūji, e:karma seed), được lưu giữ trong thức a lại da (阿賴耶, =āraya-shiki) của trường phái Duy thức (唯識, Yuishiki-ha). Trường phái này được gọi là tâm lý học Phật giáo (Buddhist psychology)[8]. Chủng tử nghiệp gồm hai loại là, cộng nghiệp (共業,gūgō, e: common karma) và bất cộng nghiệp (不共業, fugū-gō, e: individual karma). Trong khi cộng nghiệp là nghiệp được chia sẻ với người khác, còn bất cộng nghiệp là nghiệp không chia sẻ với người khác. Những khái niệm về cộng nghiệp và bất cộng nghiệp này là những nghiệp có liên quan với nhau và cộng nghiệp được chia sẻ thì thay đổi tùy theo chủ thể có liên quan. Nó được mô tả trong tác phẩm    A tỳ đạt ma thuận chánh lý luận (Abhidhamma-nyayanusara-śāstra)[9] như: núi, sông, trái đất… đều được sinh ra từ cộng nghiệp và chúng sinh được sinh ra từ bất cộng nghiệp. Bởi vậy, những cá nhân được sinh ra từ bất cộng nghiệp, và môi trường thiên nhiên như núi, sông, trái đất… được tạo ra từ cộng nghiệp của nhân loại. Kết quả là, thế giới tâm lý học tầng sâu của nhân loại được nối kết với thế giới vật chất trong thức a lại da. Sự tiến triển về nghiệp của nhân loại sẽ được phát triển trong môi trường của nó bắt nguồn từ cộng nghiệp Bởi vậy, trong y chánh bất nhị thì, môi trường (y báo) được sinh ra từ cộng nghiệp, trong khi chúng sinh (chánh báo) được sinh ra từ bất cộng nghiệp. Chủ thể và môi trường là một chỉnh thể và bất nhị trong Phật giáo.

   Nguyên tắc này cho thấy, chủ thể và môi trường có thể được thay đổi và được cải thiện cũng như những vấn đề môi trường gây ra từ nghiệp ở tầng sâu hơn của sinh mệnh. Vì thế, sự tuần hoàn của nghiệp chủ thể có thể chuyển đổi không những chủ thể nhân loại mà còn môi trường của nó.

   Khoa học về trái đất gần đây tiết lộ rằng, chúng sinh và môi trường cả hai đều phát triển ảnh hưởng lẫn nhau. Đây là khái niệm cùng phát triển của chúng sinh và môi trường. Phật giáo không những bao hàm phương diện vật chất mà còn bao hàm sự cùng phát triển ở tầng gốc của sinh mệnh, thế nhưng khái niệm khoa học chỉ bao hàm khía cạnh vật chất.

2. Xét lại phương thức sống

   Kế đến, chúng ta nên xét lại phương thức sống nào thích hợp cho việc giải quyết những vấn đề môi trường. Phải nói đây chính là sự xét lại phương thức sống. Sự xét lại phương thức sống của nhân loại trong Phật giáo đòi hỏi nâng cao sự khảo sát về đạo đức bao gồm cả chúng sinh khác, con người trong thế giới và thế hệ trong tương lai, sự xét lại phương thức sống và khảo sát phương pháp lý tưởng thuộc về khát vọng bản thân.

2.1. Đạo đức đối với chúng sinh và Đại địa luân lí học

   Đối với vấn đề đạo đức cho nhân loại và chúng sinh thì Phật giáo có hai khái niệm triết học như: duyên khởi và trung đạo là hai khái niệm rất quan trọng. Cả hai khái niệm này tạo ra quan điểm thiết yếu nhằm góp phần giải quyết những vấn đề môi trường. Như đã mô tả ở phần trên, học thuyết duyên khởi cho thấy những mối quan hệ không gian và thời gian. Đạo đức cho nhân loại đối với thiên nhiên có thể khảo sát từ học thuyết duyên khởi.

    Những thú tiêu khiển làm hại đến những mối quan hệ thuộc duyên khởi này là trái lại với trí huệ Phật giáo. Như vậy, việc duy trì hệ thống sinh thái cân bằng với sự đa dạng sinh học là rất quan trọng từ quan điểm của khái niệm duyên khởi trong Phật giáo. Bởi vì, mỗi chúng sinh có thể sống bình đẳng thông qua các mối quan hệ với những chúng sinh khác và thiên nhiên vô cơ. Phật giáo không chấp nhận những hoạt động của con người làm đứt đoạn những mối quan hệ này. Trong trường hợp đó, để duy trì tính đa dạng sinh học thì cần phải xét những gì, hoặc là xét về sự tiếp tục một sinh vật cá nhân hay là xét về sự tiếp tục ở mức độ của các chủng loại hay hệ sinh thái. Nói cách khác, có hai quan điểm mà một sinh mệnh cá nhân quý trọng giống như sự trân trọng sinh mệnh của Albert Schweitzer[10] và đảm bảo sự ổn định của hệ sinh thái có giá trị như đại địa luân lí học (land ethics, cũng gọi là đạo đức học về trái đất) của Aldo Leopold[11]. Vấn đề này tương tự với vấn đề trong “chủ nghĩa sinh mệnh trung tâm” (life centrism) của đạo đức môi trường (environmental ethics). Mặc dù Phật giáo chính là “chủ nghĩa sinh mệnh trung tâm” nhưng cũng cần thiết để mô tả trí huệ trung đạo (中道:chūdō, s:madhyamā-pratipad, e: Middle-way) trong Phật giáo để khảo sát vấn đề này.

   Phương pháp suy nghĩ tiêu biểu của trung đạo trong Phật giáo được thể hiện rõ trong “trung đạo của khổ và lạc”. “Trung đạo của khổ và lạc” là được rút ra từ sự tu tập của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đây không phải là quan điểm phủ nhận hay khẳng định chủ nghĩa khoái lạc (hedonism) hay chủ nghĩa khổ hạnh (asceticism). Mà đó là, trong khi chấp nhận giá trị của những nguyên tắc hoặc là sự cực đoan, Trung đạo yêu cầu sự hài hòa giữa chúng và không chấp nhận sự thiên lệch về một phía. Điều quan trọng của học thuyết trung đạo là cân bằng trong cả hai phương diện.

    Khi Phật giáo khảo sát đạo đức từ tư tưởng trung đạo và duyên khởi thì đạo đức đó sẽ là đạo đức tình huống. Ở đây, Phật giáo nhấn mạnh từ bi (maitrī) và không giết hại (ahimsa). Phật giáo chủ trương tất cả sinh vật bình đẳng, hiển nhiên, từ bi và không giết hại sẽ hướng đến tất cả chúng sinh. Như vậy, Phật giáo sẽ khảo sát đạo đức đối với chúng sinh từ học thuyết duyên khởi, trung đạo, từ bi và không giết hại trong sự cân nhắc của mỗi tình huống. Nó trở thành một kết luận tự nhiên cho rằng, người Phật tử không làm ngơ trước cảnh tượng con chim biển đang quằn quại trong mảng dầu chảy ra từ tàu chở dầu bị đắm, và anh ta cũng nỗ lực để cứu lấy con vật đang bị chết dần. Tuy nhiên, Phật tử có thể điều chỉnh số lượng sơn dương tăng trưởng quá nhiều tùy theo tình huống. Về cơ bản, Phật giáo tôn trọng tất cả chúng sinh. Tuy nhiên, khi chủng loại khác có thể bị diệt chủng do một chủng loại nào đó tăng trưởng quá nhiều, Phật giáo sẽ không phủ nhận việc điều chỉnh chủng loại sau để giữ sự hài hòa của hệ sinh thái và bảo tồn chủng loại trước. Tuy nhiên, phương pháp tiêu hủy sẽ áp dụng phương pháp không giết hại càng nhiều càng tốt từ quan điểm từ bi và không giết hại. Cụ thể là giống như thực hành kiểm soát sinh sản, và sự cách biệt giữa phụ nữ và đàn ông cũng phải được suy xét… Nhiều hành động của con người chẳng hạn như sự phát triển phải cấm hoàn toàn nếu sự phát triển đó làm giảm đi lượng sinh vật và làm tuyệt chủng các chủng loại, vì nó sẽ phá hủy sự ổn định của hệ sinh thái và ảnh hưởng đến chủng loại khác. Bởi vậy, việc bảo trì sự đa dạng sinh học và duy trì hệ sinh thái toàn cầu sẽ được đánh giá từ quan điểm của đại địa luân lí học.

2. 2. Văn minh tinh thần và sự ham muốn thích đáng

   Vấn đề lớn nhất cho giải pháp ấm lên toàn cầu là sự tiêu thụ vật chất cần thiết để hỗ trợ nhân loại đã vượt quá giới hạn trong hệ thống vật chất hạn chế của trái đất. Carbon đioxyt (CO2) không thể xử lý được bằng sự quang hợp của thực vật trên trái đất và thực vật nổi (phytoplankton)[12] còn lại trong bầu khí quyển bởi vì tốc độ tiêu thụ cao. Bởi vậy, một trong những phương pháp để duy trì hoạt động của nhân loại là phải làm cho khí carbon đioxyt giảm thiểu bằng công nghệ mới. Mặc dù có thể còn tồn tại những hạn chế nhưng nỗ lực này đã được thực hiện cho đến hiện nay và sẽ tiếp tục cho đến mai sau. Vì thế, một phương pháp khác để làm giảm mức độ tiêu thụ của con người đó là hoạt động của con người cần phải được kiểm soát. Kế đến, vấn đề là, làm thế nào để kiểm soát ham muốn trên cơ sở hoạt động tiêu thụ của nhân loại. Tuy nhiên, nó dường như là tránh được vấn đề ham muốn cho đến hiện nay. Sự giàu có trong hiện tại của con người là sự giàu có về vật chất, và chỉ số để đo lường là kinh tế. Bởi vậy, nhân loại thường xác định sự phát triển kinh tế như là một nhiệm vụ có vẻ tránh được vấn đề ham muốn để hỗ trợ một hoạt động kinh tế. Sự phát triển kinh tế được duy trì bằng cách luôn luôn kích thích sự ham muốn, và tăng trưởng sức tiêu thụ. Mặt khác, nỗ lực phát triển công nghệ để giảm khí carbon đioxyt đã được dốc sức thực thi. Tuy nhiên, hiện nay, phương pháp đang bị phá vỡ bởi sự cạn kiệt nguồn tài nguyên và những vấn đề môi trường.

   Phật giáo chủ trương rằng, cách tồn tại của sự ham muốn là một trong những vấn đề lớn nhất của con người. Khi khảo sát giải pháp cho vấn đề môi trường kể cả sẽ cạn kiệt nguồn tài nguyên, thì điều cần thiết là phải xét đến hai cách tồn tại sự ham muốn của con người. Một là kiểm soát ham muốn về vật chất, và hai là thay đổi chiều hướng của nó.

   Trong các ham muốn của con người thì có ham muốn về sinh lý, vật chất, và tinh thần. Đặc biệt là, ham muốn vật chất có thể mở rộng không có giới hạn, dù sự ham muốn sinh lý, như là muốn ngủ nghỉ, muốn ăn ngon, ham muốn tình dục, được điều chỉnh bằng hệ thống thần kinh trung ương và độ tuổi… Phật giáo đã tìm ra nguyên nhân của sự ham muốn phát khởi và tìm hiểu để kiểm soát sự ham muốn và cách tồn tại cho những ham muốn thích đáng. Tăng sĩ Phật giáo ở Ấn Độ thời xưa là Thế Thân (Vasubandhu) giải thích rằng, sự ham muốn được tạo nên bởi sự bám víu cái ngã (ga) trong thức mạt na (mana-shiki) như là căn ngã[13]. Sự chấp ngã này trong ngã vô thức ảnh hưởng đến cách hành xử của con người.

   Kết quả là, cái ngã này khát khao những dục vọng của nó và bị dính chặt vào chúng. Nói cách khác, sự chấp trước về những ham muốn này là sự bám víu vào vật chất đáp ứng cho thị giác, âm thanh, mùi vị, và xúc chạm bị tóm thâu bởi thức thứ năm (go-shiki) trên bề mặt của thức mạt na (manas-consciousness). Sự chấp trước này bám víu vào những ý tưởng cố định và quan điểm sai lầm dù chúng được cho là liên quan với hạnh phúc. Tuy nhiên sự bám víu này tuyệt đối không liên quan với hạnh phúc. Do vậy, càng bám víu với ham muốn thì nó càng trở nên mạnh mẽ, lại càng không đạt được toại nguyện. Và, sự ham muốn vật chất sẽ không có điểm dừng.

   Kế đến, Phật giáo Đại thừa nêu ra sự hợp nhất một cá nhân và một tiểu ngã với một đại ngã (thức thứ chín căn bản tịnh thức, Konponjoshiki) thành vũ trụ toàn thể, thành phương pháp để loại trừ sự chấp ngã, và sự quét sạch khả năng được trang bị trong giác quan trở thành phương thức loại trừ sự ham muốn vật chất. Thực tế, đây là sống với giá trị nhận thức của người tri túc (know fulfillment) sẽ được hạnh phúc dù anh ta nghèo khó. Và, người không tri túc thì nghèo dù anh ta giàu, được mô tả trong kinhPhật di giáo (Butsu-Yuigyō-Kyō)[14]. Điều không thể thiếu là nhân loại chia sẻ ý thức về giá trị đó, đặc biệt là người trong những quốc gia phát triển, biểu thị rõ vấn đề này.

   Sự thực hành tri túc này trở thành nền tảng đạo đức để kiểm soát sự ham muốn vật chất.

   Một phương thức khác để giảm thiểu sự tiêu thụ vật chất là thay đổi phương hướng sản sinh từ sự ham muốn. Đó là, ham muốn được tạo ra không phải là một sự kiểm soát nhắm đến sự giàu có về vật chất mà là một sự kiểm soát nhắm đến sự giàu có trên phương diện tinh thần.

   Sự ham muốn không có giới hạn về phương diện vật chất đã làm cạn kiệt nguồn tài nguyên và lập tức làm xấu đi môi trường một cách trực tiếp. Tuy nhiên, dù nó là vô hạn đi nữa thì sự giàu có trên phương diện tinh thần sẽ không làm lãng phí nguồn tài nguyên và phá hoại môi trường. 

   Với ý nghĩa này, sự kiểm soát phương hướng mà trong đó dục vọng được thỏa mãn sẽ không phải là kiểm soát vật chất mà là sự kiểm soát tinh thần. Mục đích thực tập trong Phật giáo là giác ngộ, đó là sự hoàn thành một phương pháp sống của con người, là sự hoàn thành trên phương diện tinh thần của con người và sự hoàn thành một hành động từ bi. Dù sao, kiểm soát dục vọng và hướng dục vọng theo sự kiểm soát giàu có trên phương diện tinh thần, có ý nghĩa to lớn để giải quyết vấn đề môi trường.

3. Sự thực hành và hành động để giải quyết những vấn đề

   Sau cùng, chúng tôi muốn trình bày những hạnh kiểm lý tưởng và tiêu chuẩn đạo đức vì nó có liên quan đến vấn đề môi trường. Schroeder-Frechet, K.S. (1981)[15]mô tả rằng, nhân loại hoàn toàn không có khả năng trong việc tạo ra sự quyết định và suy nghĩ mang tính đạo đức, mặc dù họ có nhiều thế mạnh phân tích trong lãnh vực khoa học công nghệ. Nói cách khác, cách cư xử của con người vốn dĩ là không lý tưởng, dù nhiều người trên thế giới thừa nhận là phải giải quyết vấn đề môi trường. Sau đó, điều quan trọng là làm sao để con người cư xử một cách lý tưởng. Chúng ta nên đặt vấn đề là, liệu thực hành để giải quyết vấn đề môi trường có thể được tiếp tục hay không? Động cơ thúc đẩy vẫn là cần thiết. Không sao cả, nếu nó có thể tiếp tục khi nó có đầy đủ ý nghĩa. Mặc dù, mục đích giải quyết vấn đề không chỉ là cho bản thân mà còn cho toàn nhân loại. Tuy nhiên, điều này quả thật không dễ dàng chút nào.

   Con người có khả năng và phương pháp cho những hành vi lý tưởng không? Chúng tôi nghĩ rằng điều cần thiết là có những sự trù liệu. Xã hội loài người thông thường yêu cầu một lý do tốt (sự lợi ích hay sự khích lệ) để thực hiện những mục đích tốt. Như vậy, điều quan trọng là thiết kế một hệ thống mà nó cung cấp vài sự khích lệ tích cực hay làm lợi ích cho những mục đích tốt hướng đến vấn đề môi trường.

   Điều này chỉ có thể thực hiện được nếu một hệ thống hiệu quả có lợi ích được thiết kế trong xã hội. Chẳng hạn như, những thí dụ điển hình là các ưu đãi cắt giảm thuế và phân phối trợ cấp khi những đóng góp được thực thi để bảo tồn và bảo vệ môi trường, như mua những sản phẩm bảo tồn năng lượng.

    Tóm lại, điều cần thiết là thiết kế một hệ thống có kết quả rõ rệt và cụ thể cho những người giúp giải quyết vấn đề môi trường. Đây là một vấn đề cần phải được phản ánh trong chính sách.

   Từ quan điểm của Phật giáo, giải quyết và góp phần vào công cuộc triệt tiêu vấn đề môi trường chính là một phần trong việc thực hành Phật giáo. Nói cách khác, giải quyết những vấn đề môi trường là một phương diện tất nhiên của tâm lý học Phật giáo. Một thí dụ quan trọng là thực hành bồ tát đạo (bodhisattva-caryā), sử dụng sáu ba la mật (six parāmitās) gồm: 1. Bố thí ba la mật (s: dānapāramitā), 2. Trì giới ba la mật (s:śīlapāramitā), 3. Nhẫn nhục ba la mật (s: Kāntipāramitā), 4. Tinh tấn ba la mật (s:vīryapāramitā), 5. Thiền định ba la mật (s: dhyānapāramitā), 6. Trí huệ ba la mật (s:prajñāpāramitā). Bố thí ba la mật có nghĩa là ban cho tài sản, giảng nói về một phương pháp hay gỡ bỏ nỗi sợ hãi, tức là làm việc tốt gì đó cho một người hay thiên nhiên mà không hối tiếc. Trì giới ba la mật là giữ những giới luật như: không làm tổn thương hay giết hại thực thể sinh vật và không trộm cắp. Nhẫn nhục ba la mật là chịu đựng nỗi buồn và niềm đau. Tinh tấn ba la mật là cố gắng hết mình và thường nỗ lực làm tốt hơn. Thiền định ba la mật là kiên định hoặc là không dao động trong mọi sự nỗ lực. Trí huệ ba la mật là đạt được sự hiểu biết chân chánh của trí huệ từ khái niệm duyên khởi và trung đạo. Suy ngẫm thấu đáo sáu ba la mật này từ quan điểm thực hành để giải quyết vấn đề môi trường: Bố thí ba la mật bao gồm cả việc ban tặng một phong trào môi trường, xây dựng trường học để cải tiến giáo dục trong công cuộc phát triển đất nước, nơi dạy những vấn đề môi trường và phương pháp để giải quyết, góp phần trong việc hợp tác kỹ thuật và phát triển để giảm thiểu sự ô nhiễm, không tạo ra những vấn đề sợ hãi vô ích mà ban phát kiến thức chính xác và cảm giác an toàn, hơn nữa tạo ra những nơi cư trú thích hợp cho động vật hoang dã. Trì giới ba la mật là giữ những giới luật như giới không sát sinh và giới không trộm cắp trong Phật giáo.

   Khảo sát những giới luật này[16]cho thấy, cố ý giết hại sinh vật là phạm giới không sát sinh; phá hủy nơi sinh sống của động, thực vật hoang dã, do sự phát triển và phá hoại thiên nhiên là phạm giới không trộm cắp. Bởi vậy, điều cần thiết là ngăn chặn những hành động như vậy. Nhẫn nhục ba la mật, tinh tấn ba la mật và thiền định ba la mật là kiên trì và vượt qua khó khăn gây ra bởi hành động giải quyết vấn đề mà không làm bối rối. Trí huệ ba la mật là học hỏi trí huệ từ những khái niệm duyên khởi và trung đạo, và đạt được nhận thức chân chánh từ lập trường của quan điểm đúng đắn về thiên nhiên và môi trường, hay sáng tạo phương pháp giải quyết vấn đề và thực thi nó.

   Vì vậy, những hành động và tính kiên định cho những giải pháp hướng đến vấn đề môi trường rất phù hợp với bồ tát đạo. Điều quan trọng hơn nữa là thiết lập ý nghĩa chân chánh về sáu ba la mật như là một phần trực quan của sự thực hành Phật giáo. Điều này không phải là một cái gì đó tách rời khỏi việc bảo vệ và bảo tồn môi trường. Nói cách khác, một vị bồ tát thực hành sáu ba la mật là một người hành động phù hợp với việc bảo vệ môi trường và làm giảm thiểu vấn đề môi trường. Hàng Phật tử có thể góp phần giải quyết vấn đề môi trường một cách tích cực hơn nếu những quy tắc hạnh kiểm và những tiêu chuẩn đạo đức này được duy trì trong sự thực hành Phật giáo.

TNĐ

Dịch từThe Journal of Oriental Studies trang 71-80



[7]. ibid. The Journal of Oriental Studies, 8, 144–173.

[8]. ibid. The Journal of Oriental Studies, 8, 144–173, The Journal of Oriental Studies, 11, 167–180, and Psychology and Buddhism, 239–257.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7668)
Tỳ-bà-thi Phật là danh hiệu phiên âm từ Pāli ngữ Vipassī, Sanskrit: Vipaśyin; có nghĩa là cái nhìn đặc biệt, cái nhìn sâu sắc và thanh tịnh; cách nhìn này xuyên suốt thấu đáo mọi vấn đề.
(Xem: 22421)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 8877)
Trong lịch sử tôn giáo của nhân loại rất hiếm có bậc lãnh đạo tinh thần - qua lời nói, hành động và khả năng thiện xảo - làm tăng động lực và tạo một chuyển hướng mới cho tôn giáo, Đức Phật là một khuôn mặt hiếm hoi trong các bậc này.
(Xem: 10108)
Cho đến nay, người ta vẫn chưa biết chính xác bản kinh Pháp Hoa này được thiết lập khi nào, ở đâu và được ghi lại bằng ngôn ngữ nào trước hết.
(Xem: 16776)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 8257)
Việc nghiên cứu Kinh Lăng-già, đã được ngài D.T.Suzuki thực hiện, qua tác phẩm “rất thẩm quyền”: Studies in the Lankavatara Sutra – nghiên cứu về kinh Lăng-già.
(Xem: 19067)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 7989)
Chính pháp trụ một nghìn năm, tượng pháp trụ một nghìn năm, mạt pháp trụ một vạn năm. Thuyết này trích trong Kì-hoàn tinh xá bi.
(Xem: 6924)
Nhị đếtục đếchân đế, còn gọi là chân lý tương đốichân lý tuyệt đối hay chân lý thế gianchân lý xuất thế gian.
(Xem: 8208)
Phật giáocách sống dựa trên việc rèn luyện tâm. Mục đích cao nhất là để đi trên con đường giải thoát khỏi đau khổ, và đạt đến Niết Bàn,
(Xem: 8565)
Trong 2 giai tầng của việc phát triển tâm giác ngộ nguyện vọng và dấn thân, chỉ với việc dấn thân chúng ta mới thọ giới Bồ tát.
(Xem: 9662)
Trích từ quyển How to See Yourself as You Really Are của Đức Đạt Lai Lạt Ma - Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 9532)
Thực chứng giáo lý duyên khởi, người thông tuệ hoàn toàn không vướng vào những quan điểm cực đoan...
(Xem: 7708)
Công cuộc hiện đại hóa giáo dục đại họcTrung Quốc bắt đầu từ việc chính phủ Mãn Thanh xây dựng “Kinh Sư Đại Học Đường” năm 1910 chiêu sinh sinh viên chính quy đầu tiên.
(Xem: 8273)
Đức Phật nói, nếu giữ tâm vững như hòn đảo trước phong ba bão táp của cuộc đời thì chúng ta sẽ có được chất liệu an vui, an vui về thái độ, tinh thần...
(Xem: 8295)
Phật dạy thân người do tứ đại gồm bốn chất đất-nước-gió-lửa hòa hợp lại hình thành; đất với gió lại không thuận với nhau, gió thổi mạnh thì đất rung rinh..
(Xem: 7940)
Phật dạy trong mỗi người chúng ta đều có phần tâm linh sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết không lầm lẫn, sự vật như thế nào thì biết rõ như thế đó;
(Xem: 8425)
Thực tại nền tảng của thế giới Hoa Nghiêm là Phật Tỳ-lô-giá-na (Vairocana). Đây là Pháp thân của Đức Phật Thích-ca và cũng là Pháp thân của tất cả chư Phật.
(Xem: 9953)
Dựa trên giả định các hoạt động của Tâm tạo ra những cấu trúc não bộ mới (Hebb 1949) cho biết ý tưởng, tình cảm có thể để lại dấu ấn
(Xem: 8977)
Là giai đoạn duy nhất trong kinh nghiệm cận tử liên quan đến việc nhận thức thế giới mang tính vật lý hơn là tính tâm linh...GIDEON LITCHFIELD
(Xem: 8754)
Khi Mâu Tử, một tri thức Tàu, tị nạn tại Giao Châu và viết trong Lý Hoặc Luận vào cuối thế kỷ thứ 2 sau tây lịch rằng, “Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất,”
(Xem: 8028)
Nếu quý vị không có tuệ giác trong cung cách chính mình và mọi thứ thật sự là, quý vị không thể nhận ra và xa lánh những chướng ngại...
(Xem: 9925)
Tâm ta là vật quan trọng nhất. Mọi sự đến từ tâm, vì thế tất cả những gì không ai ưa thích mà giờ đây ta đối mặt cũng đến từ tâm.
(Xem: 9825)
Những giác quan của chúng ta góp phần cho sự si mê của chúng ta. Đối với những tính năng của chúng ta về thấy, nghe, ngửi, nếm, và cảm giác, những đối tượng dường như tồn tại trong tự bản chất của nó.
(Xem: 9339)
Chết là một bộ phận trong sự sống của chúng ta. Dĩ nhiên, theo quan điểm của Phật Giáo, thân thể này trong một ý nghĩa nào đó là một kẻ thù.
(Xem: 10234)
Bất cứ ai quan tâm đến lịch sử Đức Phật đều muốn biết về bữa ăn cuối cùng của Ngài do ông Thuần Đà (Cunda) cúng dường,
(Xem: 14536)
Là vị Bồ Tát tiêu biểu cho Trí Tuệ, Bồ Tát Văn Thù thường được miêu tả với dáng dấp trẻ trung ngồi kiết già trên một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen.
(Xem: 9113)
Đức Phật là một bậc đạo sư thực tiễn. Mục tiêu duy nhất của Ngài là giải thích tất cả chi tiết trong vấn đề của khổ là thực tế phổ biến của cuộc đời.
(Xem: 8587)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 9750)
Khi mới thành đạo, đức Phật đã nói: “Lạ thay tất cả chúng sanh đều có đức tính trí huệ của Như Lai mà bị vô minh che lấp nên không phát hiện ra được”.
(Xem: 15725)
Ở đời tuổi tác là một nhân tố quan trọng tác thành nên vị trí của cá nhân trong cộng đồng. Trong đạo cũng vậy, những bậc truởng lão, thâm niên lại càng được kính nể và tôn trọng hơn.
(Xem: 8171)
Bảy yếu tố khiến Tăng đoàn hưng thịnh hay còn gọi là bảy pháp bất thối được đề cập trong bài kinh Đại bát Niết bàn, gồm: Có Tín tâm, có Tàm, có Quý, Đa văn, Tinh tấn, Chánh niệmTrí tuệ.
(Xem: 11104)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh.
(Xem: 11778)
Đạo đức học là một bộ phận của triết học nhằm dựa vào lý tríthiết lập một sự phân biệt giữa thiện và ác, giữa điều được làm và điều bị cấm làm.
(Xem: 8851)
Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.
(Xem: 9080)
Điều cần bảo vệ chính là cái tâm của người con Phật, biết kiên trì thực hành những lời Phật dạy để đem lại an lạc cho chính mình và những người chung quanh
(Xem: 11989)
Chữ “giác ngộ” trong Đạo Phật, tiếng Pali và Sanskrit đều là “Bodhi”. Tiếng Anh là “enlightenment” hay “awakening”
(Xem: 9412)
Chúng tôi đã thuyết giảng về những cảm xúc đau khổ và các tai hại mà chúng sẽ gây ra cho việc hành trì tu tập của chúng ta.
(Xem: 21723)
Chúng ta đã biết đời là vô thường đau khổ, nhưng chúng ta còn cố chấp cái ngã, cái ta, cố bám víu vào cái của ta, thì chúng ta không thể trừ bỏ được kiêu mạn,
(Xem: 15289)
Người Phật tử có trí và hiểu đạo chỉ quan tâm khiến cho mỗi đời sống là một bước tiến trên con đường tiến bộ tâm linh không ngừng, dẫn tới sự giải thoátgiác ngộ tối hậu...
(Xem: 8666)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộVãng sanh khác nhau thế nào?
(Xem: 9365)
Khi đã biết nghiệp báo nhân quả không thể tránh, khủng khiếp như thế, chúng ta phải cố gắng tránh làm ác từ ý nghĩ, lời nói đến việc làm
(Xem: 7809)
Khảo sát hiện tượng "hội nhập văn hóa" tại một trung tâm Phật giáovị trí quan trọng vào hàng nhất nhì ở thời Lý-Trần như chùa Quỳnh Lâm...
(Xem: 9395)
Ta-bà là chu kỳ của sự hiện hữu (sự sinh, sự sống và cái chết) chi phối bởi nghiệp (karma). Đấy là chiếc bánh xe của khổ đau hình thành từ các hiện tượng của sự hiện hữu
(Xem: 9445)
Chúng ta sợ đủ thứ: sợ chết, sợ khốn khổ, sợ bị chê bai chỉ trích, và trên tất cả, hình như chúng ta rất sợ sự thật.
(Xem: 10418)
Con người sanh ra trên cõi đời này đã mang theo nghiệp nhân của đời trước, lúc lớn lên lại gây tạo thêm nghiệp mới.
(Xem: 8864)
Tất cả việc làm của Phật giáo đều tập chú vào lợi ích cho chúng sanh. Chúng sanh là đối tượng duy nhất của Phật giáo.
(Xem: 14879)
Mặc dù các tôn giáo nhất là Phật giáo đều nhấn mạnh đến vấn đề Nhân Quả - Nghiệp báo, song Luật Nhân quả không phải là của riêng một tôn giáo nào, nó là một luật của tự nhiên
(Xem: 8026)
“Sống Tỉnh Giác” là sống tỉnh chứ không còn ngủ mê nữa. Đây là đi vào thực hành chứ không phải là học, hiểu hay lý luận suông.
(Xem: 8342)
Sau khi trở thành phật tử, có tam qui, ngũ giới rồi, người phật tử phải sống ra sao để an lạc hạnh phúc?
(Xem: 8420)
Tất cả chúng ta đều có duyên lớn được gặp Phật pháp, được học Phật, được có người chỉ đường, có bản đồ sẵn hết rồi, chỉ còn một việc là bước đi để trở về.
(Xem: 8840)
‘Tâm’ là chữ thường xuyên xuất hiện với người Phật tử mỗi khi nói đến tu tập . Thật vậy, nào là ‘Tu tâm’ , ‘một niệm ở tâm ta’ , nào là ‘giữ tâm ý trong sạch ’ , ‘
(Xem: 9132)
Chánh Giáo (Tam Bồ Đề_ Sambhodhi) cùng Giải Thoátmục đích chung của Phật và các đệ tử Thanh Văn...
(Xem: 8645)
Cầu xin mà có hiệu qủa, chẳng có ai không cầu, cứ ngồi đó mà cầu nguyện là tự có tất cả, chẳng phải làm việc vất vả, cần gì phải học hành cực nhọc....
(Xem: 8211)
Phật Giáo Ấn ĐộTây Tạng phân loại và hệ thống hóa toàn bộ giáo huấn của Đức Phật thành ba chu kỳ khác nhau gọi là "ba vòng quay của bánh xe Đạo Pháp"
(Xem: 7737)
Con Đường Của Bụt là chủ đề của khoá tu An Cư Kiết Đông năm 2008 - 2009. Đây là con đường Bụt đã đi, và chúng ta đang đi theo sự hướng dẫn của Ngài.
(Xem: 9919)
con người, chúng ta có khuynh hướng bám víu vào đời sống của chính mình. Nhà Phật gọi đó là chấp thủ.
(Xem: 7941)
Con người luôn sống trong sợ hãi từ hiện tại cho đến vị lai, là do chính mình gây tạo nên bằng những hành động, lời nóiý nghĩ bất thiện
(Xem: 7868)
Kinh điển thường ví giận dữ như một cơn điên. Người điên cuồng không kiềm chế được ý thức nên hành vi, cử chỉ, việc làm gây thương tổn bản thân và người khác.
(Xem: 6973)
Trồng nhân thiện nhất định được quả thiện, tạo ác nghiệp nhất định chiêu quả khổ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant