Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kệ tụng Đản sanh Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn

25 Tháng Năm 201520:21(Xem: 16803)
Kệ tụng Đản sanh Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn

KỆ TỤNG ĐẢN SINH ĐỨC THÍCH CA MÂU NI THẾ TÔN


Khi đức Thích tôn đản sinh, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất, nói bốn câu kệ. Các kinh điển ghi chép không giống nhau.

Có khá nhiều luận giải của các nhà học giả, luận sư, giải thích theo nhiều xu hướng và trường phái khác nhau. Do đó, ở đây chúng tôi thấy không cần thiết phải có thêm một bản chú giải khác. Nên chúng tôi chỉ xin giới thiệu một vài kệ tụng đản sinh tiêu biểu trong các kinh điển, để chúng ta có một cái nhìn khái quát sự kiện đản sinh của Đức Thích Ca Mâu Ni.

Kinh Trường A - hàm quyển 1: Trên trời và dưới trời, chỉ có ta tôn quí; Sẽ cứu độ chúng sinh, qua sống già bệnh chết[1].

Kinh Tu hành bản khi quyển thượng: Trên trời và dưới trời, duy có ta tôn quí; Ba cõi đầy khổ đau, ta sẽ được yên ổn[2].

Đại đường tây vực kí quyển 6: Trên trời và dưới trời, một mình ta tôn quí; Từ đời này trở đi, không còn sinh ra nữa[3].

Ngoài ra, trong kinh Quá khứ hin tại nhân quả quyển 1, kinh Phdiu quyển 2 v.v.. tuy có những câu văn mà ý nghĩa tương đương với kệ Đản sinh, nhưng không phải thể tài kệ tụng. Kệ đản sinh được dùng một cách phổ biến ở Trung Hoa và một số nước ảnh hưởng truyền thống Phật giáo Trung Hoa hiện nay là: Trên trời và dưới trời, duy có ta tôn quí; Ba cõi đều khổ đau, ta sẽ được yên ổn (Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn; Tam giới giai khổ, Ngã đương an chi).”

Lời tuyên bố này, được ghi chép lại trong rất nhiều kinh điển thuộc Hán tạng:

Theo kinh Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh t" (Trên trời dưới tri chỉ mình Ta là tôn quý. Việc cn yếu của ta là độ chúng sanh thoát ly sanh già bệnh chết - Kinh Đại Bổn Duyên)

Kinh Tu Hành Bản Khi ghi "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Tam giới vi khổ, ngô đương an chí" [4] (Trên trời dưới tri chỉ có Ta là tôn quý nhất. Ba cõi đều kh, Ta sẽ làm cho chúng sanh an lạc)

Kinh Thái Tử Thy ng Bn Khi chép "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Tam giới giai khổ, hà khả lc gi?"[5](Trên trời dưới tri chỉ có Ta là tôn quý nhất. Ba cõi đều kh, ai là người có thể đem lại san lc ?).

Kinh PhDiu nói "Thiên thượng thiên hạ vi thiên nhân tôn"[6] (Trên trời dưới trời Ta là bậc tôn quý của trời và người).

Kinh DXut Bồ Tát Bản Khi thut "Thiên thượng thiên hạ, tôn vô quá ngã giả"[7] (Trên trời dưới tri bậc tôn quý nhất không ai bằng Ta).

Kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả ghi "Ngã ư nhất thiết thiên nhân chi trung tối tôn tối thắng. Vô lượng sanh tử ư kim tận h"[8] (Ta, đối vi tt cả hàng trời người là bậc tối tôn ti thắng. Vô lượng sanh ttnay chm dt).

Kinh Pht Bn Hnh Tp ghi "Thế gian chi trung, ngã vi tối thượng. Ngã tùng kim nhật, sanh phần dĩ tận"[9](trong thế gian, Ta là bậc cao nht. Tnay, vic sanh tcủa Ta đã đoạn tn).

Ngoài ra, còn nhiều kinh sử khác như : Pht Sở Hành Tán[10], Đại Đường Tây Vực Ký quyển sáu, Hu BTNi Da Tp Squyển hai mươi v.v.. đều có thuật lại sự kiện Đản sanh. Tuy có khác biệt đôi chút về phần cuối kệ tụng, song đa phần vẫn thống nhất ở phần đầu kệ : "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn".

Ở đây, tôi xin giới thiệu thêm thi kệ được ghi chép rất cụ thể hơn, nằm trong Phương Quảng Đại Trang Nghiêm kinh, do ngài Đại Bà Đa La dịch vào đời nhà Đường như sau:

“ Khi sinh ra, ngài bước đi về Phương đông có bảy hoa sen đỡ chân, lúc bấy giờ ngài không có chút nào sợ hãi, nói mạch lạc như sau:

Ngã đắc nht thiết thiện pháp

Đương vị chúng sinh thuyết chi

Dịch:

Tôi sẽ thành tựu nht thiết thiện pháp

Và sẽ vì chúng sinh mà nói pháp.

Ngài lại đi bảy bước về phương Nam và nói:

Ngã ư nhân thiênng thọ cúng dường

Dịch:

Tôi xứng đáng nhận sự cúng dường, của chư thiên và loài người.

Ngài lại đi bảy bước về phương Tây và nói:

Ngã ư chúng sinh tối tôn, tối thng

Thtc thị ngã, tối hậu biên thân

Tận sanh lão bệnh t

Dịch:

trong thế gian, Tôi là tối tôn,

Tôi là tối thắng, thân cuối cùng của tôi,

Là chấm dứt sanh, lão, bệnh t.

Ngài lại đi bảy bước về phương bắc và nói:

Ngã đường ư nhất thiết chúng sinh trung vi thượng thượng

Dịch:

Tôi sẽ ở nơi vô số chúng sinh,

Làm bậc vô thượng thượng

Ngài lại đi bảy bước xuống hạ phương và nói:

Ngã đương hàng phục nht thiết ma quân,

Hu diệt địa ngc chi mnh hỏa đảnh,

Shu khcựu, thi đại pháp vân

đại pháp vũ, đương tận chúng sinh

Tn than lc.

Dịch:

Ta sẽ hàng phc hết thảy ma quân,

Li dit trnhững tác cụ khổ đau, như lửa dữ…

Ở nơi địa ngc, thi thiết mây pháp lớn

Tuôn trào mưa pháp lớn,

Khiến chúng sinh đều được an lc

Ngài lại đi bảy bước nhìn lên thượng phương và nói:

Ngã đương vị nht thiết chúng sinh chi sở chiêm ngưỡng

Dịch:

Tôi sẽ làm người cho hết thảy chúng sinh chiêm ngưỡng.

Lúc Thế Tôn nói vừa xong, âm thanh của ngài vang khắp ba ngàn thế giới.”

Đọc tới đây, chắc không ít người sẽ thắc mắc. Tại sao Đạo Phật chủ trương vô ngã “Như Thế Tôn ngôn: Nhứt thiết pháp vô ngã?” (Bách Pháp Minh Môn Luận, Thế Thân); Như lời Thế Tôn nói: Tất cả Pháp là Vô ngã? Vậy tại sao khi ngài đản sinh, câu nào ngài nói, cũng có đề cập đến “ngã” hay duy ngã độc tôn 唯我獨尊? Chỉ có ta là tôn quí hơn hết. Căn cứ theo kinh Đại bản trong Trường A-hàm ghi lại sự kiện đức Thế tôn sinh ra từ hông bên phải của mẫu hậu Ma da phu nhân, sau khi xuống mặt đất, Ngài đi bảy bước, nhìn khắp bốn phương, giơ một tay lên nói[11]: Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Tiếng Anh dịch câu này là: Above Heaven and under Heaven I am alone and worthy of honor (Sakyamuni) hay In the heavens above and (earth) beneath I alone is the honoured one: Trên trời, dưới trời, chỉ có ta là đáng kính trọng, tôn kính. Thích Môn Qui Kính Nghi quyển thượng giải thích rằng, vì ở

Ấn độ thời bấy giờ có 96 thứ ngoại đạo đều tự gọi là Đại thánh, là thầy trời và người, vì muốn khiến tà về chính nên đức Thế tôn thị hiện tướng đi bảy bước, đưa tay lên trời mà nói: “Duy ngã độc tôn” để biểu thị trong ba cõi chỉ có Phật là tôn quí, sẽ cứu độ tất cả trời, người dứt khổ sống chết, khiến hết thảy chúng sinh đều được yên vui, mà ngoại đạo không thể có khả năng làm như vậy được. Còn các tà đạo khác chẳng phải là chỗ để chúng sinh nương cậy, vì thế nên nói: Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn.

EDWARD CONZE trong một bài viết, đã giải thích như sau: “Trên trời dưới trời, riêng ta cao nhất. Trên trời dưới trời riêng ta tôn quý nhất.” Đó là lời Đức Phật lúc Ngài mới giáng sanh từ bên sườn phải Hoàng Hậu Ma Da và bước bảy bước đầu tiên. Đây không phải là một câu nói cao ngạo mà là câu nói để chứng tỏ rồi đây Ngài sẽ hiểu được sự đồng nhứt của bản tánh thật của toàn vũ trụ, chứ không phải là bản ngã theo thế tục. Lời tuyên bố nầy cũng là thường pháp của chư Phật ba đời. Đối với Đại Thừa, Ngài là tiêu biểu cho vô lượng chư Phật trong vô lượng kiếp[12].

Tóm lại, có khá nhiều dị biệt về văn bản và chú giải thi kệ đản sinh, mà ở trên chúng Tôi đã trình bày vài điểm tiêu biểu, góp phần giúp chúng ta, mỗi người có thể tự hiểu thêm về ý nghĩa hay mục đích thị hiện của Đức Phật. Để thành kính dâng lên, tưởng nhớ vị Cha lành, nhân lần đản sinh thứ 2639 của Ngài. Và cũng để nhắc nhở chúng ta nhau tinh tấn tu tập, ngõ hầu báo đáp công ơn giáo hóa trong muôn một.

Mùa Phật đản 2559,

Phước Nguyên

 



[1] Cf. Trường I, Đại 1, tr.4c.

[2] Đại chánh 3, tr. 463c.

[3] Đại chánh 51, tr. 902ab.

[4] Đại Chánh 3, tr. 463c.

[5] Ibid, tr. 473c.

[6] Ibid, tr. 494a.

[7] Ibid,tr . 618a

[8] Ibid, tr. 625a

[9] Ibid, tr.687b.

[10] Đại chánh 4, tr.1b.

[11]  Cf. Trường I, Đại chánh 1, tr.4c.

[12] Cf. Buddhist Thought in India, Edward Conze, London, 1962.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12282)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11946)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12842)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26710)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13104)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27096)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32927)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31732)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32632)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13052)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12191)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17561)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18787)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12600)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11803)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13157)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12271)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12531)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11691)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 12031)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10652)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10954)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28391)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11201)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11414)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13622)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11068)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11468)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10938)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11228)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26424)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12431)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14926)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11101)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20408)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12402)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11525)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10806)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23999)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11903)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12360)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12885)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11104)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38792)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10598)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12257)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17772)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25148)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10584)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10815)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12089)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11380)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11644)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14767)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21482)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9950)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11300)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27444)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11209)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11884)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant