Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đính Chính Về Chữ Evaṃ Mayāśrutaṃ - Như Thị Ngã Văn

01 Tháng Bảy 201515:19(Xem: 16741)
Đính Chính Về Chữ Evaṃ Mayāśrutaṃ - Như Thị Ngã Văn

ĐÍNH CHÍNH VỀ CHỮ EVAM MAYĀŚRUTAM NHƯ THỊ NGÃ VĂN

*****

Phước Nguyên

Ở đây chúng ta nói về Eva mayāśruta, Tạng ngữ gọi là: འདི་སྐད་བདག་གིས་ཐོས་པ་དུས་གཅིག་ན།, trong Pāli chúng ta có từ  Eva me suta.  Các bản Hán đều đa phần đều dịch Eva mayāśruta là: “Như Thị Ngã Văn 如是我聞” (Tôi nghe như vậy). Bài viết này tạm dùng Kinh Kim Cương Phạn ngữ, để làm ví dụ dẫn chứng cho việc phân tích từ này.

1/Eva एवं  (Như vậy)

Phạn ngữ và Pāli: एवं evaBất biến từ Sanskrit. Có nghĩa là: như vậy, như thế…

Tạng ngữ Kim cang viết là འདི་སྐད 'di skad:  dịch Anh ngữ là thus, these [words], in these words, speaking these words, accordingly, these…

Edward Conze, trong  The Diamond Sutra dịch là: “thus”; La Thập, Huyền Trang, Nghĩa Tịnh đều dịch là: Như Thị 如 是.

Ngài Long Thọ giải thích: “Như vậy”  (Eva): “Phật pháp như biển cả, có tin thì vào được, có trí thì qua được. Nghĩa của Như vậy (Eva) tức là tin (…) không có tin thì nói: "việc ấy không như vậy (tan naiva)"; ấy là sự tướng của bất tin; có tin thì nói "việc ấy như vậy (eva etat)"[1]. 

2.     Mayā मया  (Tôi)

Phạn ngữmayā मया (Pāli. मे me), được thiết lập từ aham; Đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, Biến cách thứ ba Instrumental (dụng cụ cách).

Tạng ngữ Kim cang viết:  བདག་གིས bdag gis dịch anh ngữ là: I, by me v.v..

Edward Conze dịch là: “I”,  La Thập, Huyền Trang, Nghĩa Tịnh đều dịch là: ngã 我;

3.    Śrutam श्रुतम  (Nghe)

Phạn ngữ: श्रुतम śrutam, được thành lập từ động từ căn śru: nghe (căn śru-5); phân từ quá khứ, số ít, trung tính

Tạng ngữ Kim cang viết: ཐོས་པ Thos pa dịch anh ngữ là: understand; study, be told, to hear; heard; learning; listening; hear v.v..

Thí dụ

Dpag tu med

Dịch Anh ngữ là immeasurable hearing: nghe vô lượng…

Edward Conze dịch là: “heard”;  La Thập, Huyền Trang, Nghĩa Tịnh đều dịch là: văn聞.

Từ “Như 如” trong Như  Thị Ngã Văn 如 是 我 聞, không phải là chân như, như thật, thực tại, nên không thể dịch là: “Đúng như thực tôi được nghe v.v...”. Cho đến thời hiện đại, rất nhiều vị luận sư, học giả Trung hoa vẫn không ngờ đến ba chữ evam, yathā và tathā trong tiếng Sanskrit mà Hán văn chỉ có võn vẹn một chữ Như 如.

Nhiều vị chỉ căn cứ trên chữ Như thị, không cần để ý và biết đến nguyên ngữ của đó là "evam" hay "tathā", chúng ta có thể minh chứng bằng việc dẫn một đoạn giải thích của Thái Hư đại sư, một bậc thạc học Phật giáo Trung Hoa thời hiện đại: "Hai chữ này tổng quát tông chỉ của toàn kinh. Nói về tông chỉ toàn kinh, đấy tức là nói về thật tướng của vạn pháp; tức nói về Kim cang bát nhã, tức nói về cứu cánh vô thượng bồ đề. Do đó gọi là Như thị.[2]

Đoạn văn vừa dẫn đủ ta thấy được ngay như thị trong Như  Thị Ngã Văn 如 是 我 聞 được hiểu như là Như Thật, Chân Như hay Nhất Như. Tuy evamtathā đều có nghĩa là “Như vậy”; nhưng phải phân biệt rằng:

Eva : “như vậy”, biểu lộ cho lòng xác tín về điều mà người ta chưa thấy;

Còn Tathā cũng được dịch là như vậy nhưng với nghĩa là: như thực thực tại hay chân như, chỉ cho sự tương ứng giữa trí tuệthực tại

Đại Trí Độ luận[3] giải thích hai từ này như sau:  

Như vậy  (Eva): “Phật pháp như biển cả, có tin thì vào được, có trí thì qua được. Nghĩa của Như vậy (Eva) tức là tin (…) không có tin thì nói: "việc ấy không như vậy (tan naiva)"; ấy là sự tướng của bất tin; có tin thì nói "việc ấy như vậy (eva etat)"[4].  Eutienne Lamotte nói rằng: Tín thường được so sánh như một chiếc thuyền: Saddhāya taratirgham; ông trích các kinh Pāli: Suttanipāta, Samyutta và một số kinh điển Sanskrit[5].

Còn tathā hay Tathātā: Như Thật, Chân Như, Thực Tại hay Nhất Như, cũng được giải thích trong Đại Trí độ luận: “như pháp tướng mà hiểu, như pháp tướng mà giảng thuyết, như con đường an ổn của chư Phật mà đi đến. Phật cũng như vậy mà đến…”[6].

Chúng ta nói tiếp đến chữ yathā: mà Hán cũng dịch như 如. Trong việc dịch thuật, bớt những rườm rà là điều có thể chấp nhận, giống như việc Ngài La-thập đã làm trong công trình phiên dịch của Ngài; nhưng nếu thêm thắt bất cứ nơi nào dịch giả muốn thì quả tình khó chấp nhận. Đối với kinh Pháp hoa, rất có ảnh hưởng tại Trung Hoa, nó bị hiểu lầm quá nhiều. Nhất là đoạn Thập Như: Như thị tánh, Như thị tướng… Trong lối thêm như vậy, độc giả sẽ phải hiểu chữ Như ở đây đồng nghĩa với Như lai; thực sự trong nguyên bản, nó không phải là Tathā, mà là yathā: (...) ye ca yathā ca yā drsāsca yallaksanāsca yatsvabhāvsca te dharmā iti. Yathā diễn tả cái ý tưởng về tình trạng "giống như…" chứ không phải "Như vậy là như vậy", của Tathā

Cho nên, Eva mayāśruta, Tạng ngữ tương đương འདི་སྐད་བདག་གིས་ཐོས་པ་དུས་གཅིག་ན།. Có  śruta: Quá khứ  phân từ, thể cách, còn công năng của ngã mayā nó làm cụ cách; dịch sát theo Phạn ngữ phải là: “Tôi được nghe (là) như vậy”; Ta cũng có thể dịch sát câu này từ Phạn sang Hán văn như sau: “Bị ngã sở văn giả (thị) như thị 被我 所聞者(是)如是” . Động từ “là” (Thị是, as) được tĩnh lược.  Hay chúng ta cũng có thể sử dụng cách dịch phổ thông hiện này là: Như Thị Ngã Văn 如是我聞: Tôi nghe như vậy, tôi nghe như thế v.v...

Tóm lại, Eva mayāśruta, hay Như Thị Ngã Văn 如是我聞, không thể dịch là: Đúng thật như thế tôi nghe, chính xác như thế tôi được nghe, như thực tôi nghe v.v.. hay những cách dịch tương tự như vậy đều là đi ngược lại và nhầm lẫn với nghĩa gốc của nó.

Phân tích nặng về ngôn ngữ như vậy, có lẽ không thể tránh khỏi sự “đụng chạm” và “sự phiền trách”: ngôn ngữ chỉ dùng để diễn tả các ấn tượng; một ấn tượng mà có nhiều chữ thì có gì đáng phải đính chính, phải thắc mắc?

Nhưng thực sự chúng ta nên biết “mồm, mỏm hay miệng” thì cũng chỉ cho một thứ, nhưng không thể thay thế nhau trong bất cứ trường hợp nào cả. Ví dụ như: không thể gọi miệng của một người phải kính trọng là "mồm hay mỏm của Ngài" được[7].

Hiểu được thể cách diễn đạt của ngôn ngữ như vậy, chúng ta mới dễ dàng vượt quathông hiểu những vấn đềphiền toái” này.

 

 



[1] Đại Trí Độ, T25n1509, tr. 63a1. Cf. Bản việt, Tuệ sỹ, thảo bản 10 quyển.

[2] Kim Cang giảng lục. Toàn Thư 11, tr. 25

[3] T25n1509, tr. 63a1.Cf. Bản việt, Tuệ sỹ, thảo bản 10 quyển.

[4] Ibid, tr. 63a1.

[5] Le traité de la Grande Vertu de Sagesse, Louvain, 1644, tr, 56, n. 2. Cf. Tuệ Sỹ Văn Tuyển II : Triết học, Hương Tích ấn hành.

[6] Ibid, tr. 63a1.

[7]Le traité de la Grande Vertu de Sagesse, Louvain, 1644, tr, 56, n. 2. Cf.Tuệ Sỹ Văn Tuyển II : Triết học, Hương Tích ấn hành.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7716)
Tỳ-bà-thi Phật là danh hiệu phiên âm từ Pāli ngữ Vipassī, Sanskrit: Vipaśyin; có nghĩa là cái nhìn đặc biệt, cái nhìn sâu sắc và thanh tịnh; cách nhìn này xuyên suốt thấu đáo mọi vấn đề.
(Xem: 22508)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 8923)
Trong lịch sử tôn giáo của nhân loại rất hiếm có bậc lãnh đạo tinh thần - qua lời nói, hành động và khả năng thiện xảo - làm tăng động lực và tạo một chuyển hướng mới cho tôn giáo, Đức Phật là một khuôn mặt hiếm hoi trong các bậc này.
(Xem: 10156)
Cho đến nay, người ta vẫn chưa biết chính xác bản kinh Pháp Hoa này được thiết lập khi nào, ở đâu và được ghi lại bằng ngôn ngữ nào trước hết.
(Xem: 16853)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 8292)
Việc nghiên cứu Kinh Lăng-già, đã được ngài D.T.Suzuki thực hiện, qua tác phẩm “rất thẩm quyền”: Studies in the Lankavatara Sutra – nghiên cứu về kinh Lăng-già.
(Xem: 19111)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 8016)
Chính pháp trụ một nghìn năm, tượng pháp trụ một nghìn năm, mạt pháp trụ một vạn năm. Thuyết này trích trong Kì-hoàn tinh xá bi.
(Xem: 6971)
Nhị đếtục đếchân đế, còn gọi là chân lý tương đốichân lý tuyệt đối hay chân lý thế gianchân lý xuất thế gian.
(Xem: 8238)
Phật giáocách sống dựa trên việc rèn luyện tâm. Mục đích cao nhất là để đi trên con đường giải thoát khỏi đau khổ, và đạt đến Niết Bàn,
(Xem: 8579)
Trong 2 giai tầng của việc phát triển tâm giác ngộ nguyện vọng và dấn thân, chỉ với việc dấn thân chúng ta mới thọ giới Bồ tát.
(Xem: 9681)
Trích từ quyển How to See Yourself as You Really Are của Đức Đạt Lai Lạt Ma - Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 9547)
Thực chứng giáo lý duyên khởi, người thông tuệ hoàn toàn không vướng vào những quan điểm cực đoan...
(Xem: 7735)
Công cuộc hiện đại hóa giáo dục đại họcTrung Quốc bắt đầu từ việc chính phủ Mãn Thanh xây dựng “Kinh Sư Đại Học Đường” năm 1910 chiêu sinh sinh viên chính quy đầu tiên.
(Xem: 8306)
Đức Phật nói, nếu giữ tâm vững như hòn đảo trước phong ba bão táp của cuộc đời thì chúng ta sẽ có được chất liệu an vui, an vui về thái độ, tinh thần...
(Xem: 8307)
Phật dạy thân người do tứ đại gồm bốn chất đất-nước-gió-lửa hòa hợp lại hình thành; đất với gió lại không thuận với nhau, gió thổi mạnh thì đất rung rinh..
(Xem: 7950)
Phật dạy trong mỗi người chúng ta đều có phần tâm linh sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết không lầm lẫn, sự vật như thế nào thì biết rõ như thế đó;
(Xem: 8453)
Thực tại nền tảng của thế giới Hoa Nghiêm là Phật Tỳ-lô-giá-na (Vairocana). Đây là Pháp thân của Đức Phật Thích-ca và cũng là Pháp thân của tất cả chư Phật.
(Xem: 9984)
Dựa trên giả định các hoạt động của Tâm tạo ra những cấu trúc não bộ mới (Hebb 1949) cho biết ý tưởng, tình cảm có thể để lại dấu ấn
(Xem: 9007)
Là giai đoạn duy nhất trong kinh nghiệm cận tử liên quan đến việc nhận thức thế giới mang tính vật lý hơn là tính tâm linh...GIDEON LITCHFIELD
(Xem: 8800)
Khi Mâu Tử, một tri thức Tàu, tị nạn tại Giao Châu và viết trong Lý Hoặc Luận vào cuối thế kỷ thứ 2 sau tây lịch rằng, “Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất,”
(Xem: 8049)
Nếu quý vị không có tuệ giác trong cung cách chính mình và mọi thứ thật sự là, quý vị không thể nhận ra và xa lánh những chướng ngại...
(Xem: 9961)
Tâm ta là vật quan trọng nhất. Mọi sự đến từ tâm, vì thế tất cả những gì không ai ưa thích mà giờ đây ta đối mặt cũng đến từ tâm.
(Xem: 9871)
Những giác quan của chúng ta góp phần cho sự si mê của chúng ta. Đối với những tính năng của chúng ta về thấy, nghe, ngửi, nếm, và cảm giác, những đối tượng dường như tồn tại trong tự bản chất của nó.
(Xem: 9370)
Chết là một bộ phận trong sự sống của chúng ta. Dĩ nhiên, theo quan điểm của Phật Giáo, thân thể này trong một ý nghĩa nào đó là một kẻ thù.
(Xem: 10255)
Bất cứ ai quan tâm đến lịch sử Đức Phật đều muốn biết về bữa ăn cuối cùng của Ngài do ông Thuần Đà (Cunda) cúng dường,
(Xem: 14582)
Là vị Bồ Tát tiêu biểu cho Trí Tuệ, Bồ Tát Văn Thù thường được miêu tả với dáng dấp trẻ trung ngồi kiết già trên một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen.
(Xem: 9126)
Đức Phật là một bậc đạo sư thực tiễn. Mục tiêu duy nhất của Ngài là giải thích tất cả chi tiết trong vấn đề của khổ là thực tế phổ biến của cuộc đời.
(Xem: 8621)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 9774)
Khi mới thành đạo, đức Phật đã nói: “Lạ thay tất cả chúng sanh đều có đức tính trí huệ của Như Lai mà bị vô minh che lấp nên không phát hiện ra được”.
(Xem: 15784)
Ở đời tuổi tác là một nhân tố quan trọng tác thành nên vị trí của cá nhân trong cộng đồng. Trong đạo cũng vậy, những bậc truởng lão, thâm niên lại càng được kính nể và tôn trọng hơn.
(Xem: 8204)
Bảy yếu tố khiến Tăng đoàn hưng thịnh hay còn gọi là bảy pháp bất thối được đề cập trong bài kinh Đại bát Niết bàn, gồm: Có Tín tâm, có Tàm, có Quý, Đa văn, Tinh tấn, Chánh niệmTrí tuệ.
(Xem: 11129)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh.
(Xem: 11793)
Đạo đức học là một bộ phận của triết học nhằm dựa vào lý tríthiết lập một sự phân biệt giữa thiện và ác, giữa điều được làm và điều bị cấm làm.
(Xem: 8880)
Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.
(Xem: 9112)
Điều cần bảo vệ chính là cái tâm của người con Phật, biết kiên trì thực hành những lời Phật dạy để đem lại an lạc cho chính mình và những người chung quanh
(Xem: 12029)
Chữ “giác ngộ” trong Đạo Phật, tiếng Pali và Sanskrit đều là “Bodhi”. Tiếng Anh là “enlightenment” hay “awakening”
(Xem: 9437)
Chúng tôi đã thuyết giảng về những cảm xúc đau khổ và các tai hại mà chúng sẽ gây ra cho việc hành trì tu tập của chúng ta.
(Xem: 21754)
Chúng ta đã biết đời là vô thường đau khổ, nhưng chúng ta còn cố chấp cái ngã, cái ta, cố bám víu vào cái của ta, thì chúng ta không thể trừ bỏ được kiêu mạn,
(Xem: 15301)
Người Phật tử có trí và hiểu đạo chỉ quan tâm khiến cho mỗi đời sống là một bước tiến trên con đường tiến bộ tâm linh không ngừng, dẫn tới sự giải thoátgiác ngộ tối hậu...
(Xem: 8680)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộVãng sanh khác nhau thế nào?
(Xem: 9379)
Khi đã biết nghiệp báo nhân quả không thể tránh, khủng khiếp như thế, chúng ta phải cố gắng tránh làm ác từ ý nghĩ, lời nói đến việc làm
(Xem: 7825)
Khảo sát hiện tượng "hội nhập văn hóa" tại một trung tâm Phật giáovị trí quan trọng vào hàng nhất nhì ở thời Lý-Trần như chùa Quỳnh Lâm...
(Xem: 9413)
Ta-bà là chu kỳ của sự hiện hữu (sự sinh, sự sống và cái chết) chi phối bởi nghiệp (karma). Đấy là chiếc bánh xe của khổ đau hình thành từ các hiện tượng của sự hiện hữu
(Xem: 9458)
Chúng ta sợ đủ thứ: sợ chết, sợ khốn khổ, sợ bị chê bai chỉ trích, và trên tất cả, hình như chúng ta rất sợ sự thật.
(Xem: 10435)
Con người sanh ra trên cõi đời này đã mang theo nghiệp nhân của đời trước, lúc lớn lên lại gây tạo thêm nghiệp mới.
(Xem: 8879)
Tất cả việc làm của Phật giáo đều tập chú vào lợi ích cho chúng sanh. Chúng sanh là đối tượng duy nhất của Phật giáo.
(Xem: 14893)
Mặc dù các tôn giáo nhất là Phật giáo đều nhấn mạnh đến vấn đề Nhân Quả - Nghiệp báo, song Luật Nhân quả không phải là của riêng một tôn giáo nào, nó là một luật của tự nhiên
(Xem: 8041)
“Sống Tỉnh Giác” là sống tỉnh chứ không còn ngủ mê nữa. Đây là đi vào thực hành chứ không phải là học, hiểu hay lý luận suông.
(Xem: 8355)
Sau khi trở thành phật tử, có tam qui, ngũ giới rồi, người phật tử phải sống ra sao để an lạc hạnh phúc?
(Xem: 8439)
Tất cả chúng ta đều có duyên lớn được gặp Phật pháp, được học Phật, được có người chỉ đường, có bản đồ sẵn hết rồi, chỉ còn một việc là bước đi để trở về.
(Xem: 8855)
‘Tâm’ là chữ thường xuyên xuất hiện với người Phật tử mỗi khi nói đến tu tập . Thật vậy, nào là ‘Tu tâm’ , ‘một niệm ở tâm ta’ , nào là ‘giữ tâm ý trong sạch ’ , ‘
(Xem: 9149)
Chánh Giáo (Tam Bồ Đề_ Sambhodhi) cùng Giải Thoátmục đích chung của Phật và các đệ tử Thanh Văn...
(Xem: 8656)
Cầu xin mà có hiệu qủa, chẳng có ai không cầu, cứ ngồi đó mà cầu nguyện là tự có tất cả, chẳng phải làm việc vất vả, cần gì phải học hành cực nhọc....
(Xem: 8223)
Phật Giáo Ấn ĐộTây Tạng phân loại và hệ thống hóa toàn bộ giáo huấn của Đức Phật thành ba chu kỳ khác nhau gọi là "ba vòng quay của bánh xe Đạo Pháp"
(Xem: 7766)
Con Đường Của Bụt là chủ đề của khoá tu An Cư Kiết Đông năm 2008 - 2009. Đây là con đường Bụt đã đi, và chúng ta đang đi theo sự hướng dẫn của Ngài.
(Xem: 9940)
con người, chúng ta có khuynh hướng bám víu vào đời sống của chính mình. Nhà Phật gọi đó là chấp thủ.
(Xem: 7953)
Con người luôn sống trong sợ hãi từ hiện tại cho đến vị lai, là do chính mình gây tạo nên bằng những hành động, lời nóiý nghĩ bất thiện
(Xem: 7894)
Kinh điển thường ví giận dữ như một cơn điên. Người điên cuồng không kiềm chế được ý thức nên hành vi, cử chỉ, việc làm gây thương tổn bản thân và người khác.
(Xem: 6991)
Trồng nhân thiện nhất định được quả thiện, tạo ác nghiệp nhất định chiêu quả khổ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant