Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phân Tích Tính Chất Đồng Nhất

04 Tháng Tám 201512:06(Xem: 10221)
Phân Tích Tính Chất Đồng Nhất
Phân Tích Tính Chất Đồng Nhất

Đạt Lai Lạt Ma 
Tuệ Uyển chuyển ngữ
Phân Tích Tính Chất Đồng Nhất

Giáo thuyết tối thượng tịnh hóa tâm thức

Là việc vắng mặt sự tồn tại cố hữu.

(Vô tự tính)

 

-LONG THỌ TÁN DƯƠNG THỰC TẠI

 

Bây giờ chúng ta sẳn sàng để phân tích “cái tôi” có thể là một với tâm thứcthân thể hay không.  Quan tâm những ngụ ý sau.  Nếu “cái tôi” được thiết lập trong tự nó và của chính nó, như nó hiện diện đến tâm thức chúng ta, và nếu nó cũng là một với tâm – thân, thế thì “cái tôi” và tâm – thân hoàn toàn không thể khác biệt.  Chúng sẽ phải là hoàn toàn và luôn luôn là giống nhau là một với nhau.  Những hiện tượng xuất hiện một cách nhưng tồn tại trong một cách khác là sai lạc, nhưng không thể cho những gì là thật sự được thiết lập có một sự đối kháng giữa sự xuất hiệnsự kiện thực tế.  Điều gì thật sự phải xuất hiện cung cách nó tồn tại và phải tồn tại trong cung cách nó xuất hiện.

 

Nếu “cái tôi” là một với tâm – thân, thậm chí có hợp lý để thừa nhận sự tồn tại của “cái tôi” không?  Như Long Thọ nói trong Trung Quán Luận:

 

Khi được xem nhưvô ngã

Ngoại trừ phức hợp tâm – thân,

Thế thì phức hợp tâm – thân tự nó sẽ là tự ngã

Nếu như thế, tự ngã của bạn không tồn tại

 

Nếu “cái tôi” và phức hợp tâm – thân là giống nhau một cách chính xác, sẽ không thể nghĩ về “thân thể tôi” hay “cái đầu tôi” hay “tâm thức tôi” hay phỏng đoán rằng “thân thể tôi đang mạnh mẽ hơn.”  Cũng thế, nếu tự ngã và tâm – thân là một, thế thì tâm thứcthân thể không tồn tại nữa, tự ngã cũng sẽ không tồn tại.

 

Vấn đề thứ hai là, vì tâm thứcthân thể là số nhiều, những tự ngã của một người sẽ phải là nhiều vẻ.  Như Nguyệt Xứng nói:

 

Nếu tâm thứcthân thể là tự ngã,

Thế thì bởi vì tâm thứcthân thể là số nhiều

Những tự ngã sẽ phải đúng là số nhiều

 

Hay, như tự ngã là một, tâm thứcthân thể cũng sẽ là một (số ít), một cách vô lý.

 

Vấn đề thứ ba là, giống như tâm thứcthân thể được sản sinh và suy tàn, “cái tôi” cũng phải được sản sinh một cách cố hữu và suy tàn một cách cố hữu.  Mặc dù Phật Giáo thừa nhận rằng tự ngã được sản sinh và suy tàn, chúng tôi cho rằng điều này thật là quy ước tục đế, không phải một cách cố hữu từ chính phía nó.  Trong việc vắng mặt của sự tồn tại cố hữu (vô tự tính), có thể cho một chuỗi thời khắc, ngay cả sự sống, hình thành một sự tương tục mà trong ấy cái sau tùy thuộc vào cái trước.  Tuy nhiên, nếu tự ngã được sản sinh một cách cố hữu và tan rả một cách cố hữu, thì không thể có những thời khắc hiện tại của đời sống của quý vị tùy thuộc trên những thời khắc trước, vì mỗi thời khắc vì mỗi thời khắc được sản sinh và tan rã trong tự nó và của chính nó, mà không tùy thuộc trên bất cứ điều gì khác.  Trong trường hợp này, những đời sống quá khứ sẽ không thể có, vì mỗi đời sống sẽ tồn tại trong tự nó và của chính nó [mà không liên hệ với bất cứ điều gì khác].

 

Đức Phật nói về việc nhớ lại những đời sống quá khứ, và một số người tiếp nhận một cách sai lầm rằng  điều này có nghĩa là Đức Phật sau sự giác ngộcá nhân, Ngài ở trong một cuộc đời quá khứ là một và giống nhau, và vì thế  là thường còn.  Tuy nhiên, khi Đức Phật diễn tả những đời sống trước đây, Ngài đã cẩn thận không đồng nhất rằng con người của đời sống hiện tại của Ngài trong một nơi đặc thù tại một thời điểm đặc thù là con người trong một nơi đặc thù tại một thời điểm đặc thù của quá khứ.  Ngài đã nói trong dạng thức tổng quát, nói một cách đơn thuần rằng, “Trong quá khứ ta đã là một con người như thế như thế,” những Ngài đã không nói, “Trong quá khứ Phật Thích Ca Mâu Ni là một con người như vậy như vậy.”

 

Trong cách này, chủ thể của hành động (nghiệp) trong một đời sống quá khứtác nhân trãi nghiệm những kết quả của những nghiệp chướng đó được bao gồm trong sự tương tục của điều mà Phật Giáo gọi là “cái tôi tồn tại không cố hữu” (hay “chỉ là – cái tôi” đã du hành từ đời này sang đời khác.  Nói cách khác, nếu “cái tôi” được sản sinh một cách cố hữu và tan rã một cách cố hữu, sự tương tục như thế sẽ không thể có, vì hai kiếp sống – con người làm những hành động và con người chịu đựng những hậu quả - sẽ không liên hệ với nhau.  Điều này sẽ đưa đến kết quả vô lý rằng những hiệu quả an lạc của những hành vi đạo đức và những hậu quả khổ đau của những hành động vô đạo đức sẽ không sinh hoa trái cho chúng ta; những hậu quả của những hành động đó sẽ là lãng phí, chúng ta sẽ trãi nghiệm những hậu quả mà chính chúng ta đã không tạo tác.

 

Thiền Quán Phản Chiếu

 

Quan tâm những hậu quả nếu “cái tôi” được thiết lập trong tự nó và của chính nó [không liên hệ với bất cứ thứ gì khác] phù hợp với việc nó xuất hiện như thế nào trong tâm thức chúng ta và nếu nó cũng là một với tâm – thân chúng ta:

 

1-    “Cái tôi” và tâm – thân sẽ hoàn toàntuyệt đối là một.

2-    Trong trường hợp đó, thừa nhận một “cái tôi” sẽ vô nghĩa.

3-    Sẽ không thể nghĩ về “thân thể tôi” hay “cái đầu tôi” hay “tâm thức tôi”.

4-    Khi tâm thứcthân thể không tồn tại nữa, tự ngã cũng sẽ không tồn tại.

5-    tâm thứcthân thể là số nhiều, những tự ngã của một người cũng sẽ là số nhiều.

6-    Vì “cái tôi” chỉ là một (số ít), tâm thức vả thân thể cũng sẽ là một (số ít).

7-    Giống như tâm thứcthân thể được sản sinh và tan rã vì thế sẽ phải thừa nhận rằng “cái tôi” được sản sinh một cách cố hữu và tan rã một cách cố hữu.   Trong trường hợp này, không có hiệu quả an lạc của những hành động đạo đức , cũng không có hậu quả khổ đau của những hành động phi đạo dức sản sinh hoa trái cho chúng ta, hay chúng ta sẽ trãi nghiệm hậu quả của những hành vichúng ta đã không tạo tác.

 

Hãy nhớ rằng, những gì được thiết lập một cách cố hữu không thể được bao gồm trong cùng sự tương tục mà phải là khác biệt một cách không liên hệ.  Thấu hiểu rằng điều này lệ thuộc trên việc tiếp nhận một ý nghĩa đúng đắn của việc “cái tôi” và những hiện tượng khác thường xuất hiện đến chúng ta là sự tự cấu thành [[1]] và chúng ta thường chấp nhận sự xuất hiện đó và rồi hành động trên căn bản của nó như thế nào.  Đây là loại hiện hữu phóng đại mà chúng ta đang khảo sát.

 

Trích từ quyển How to See Yourself as You Really Are của Đức Đạt Lai Lạt Ma 
Tuệ Uyển chuyển ngữ

 


[1] Không liên hệ đến những thứ khác, tức là sự xuất hiện độc lập, không do nhân duyên, mà đấy là điều không thể có.  Và chúng ta phải thấu hiểu điều này một cách rõ ràng, mới có thể có chính kiến về sự liên hệ hổ tương hay duyên sinh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7724)
Tỳ-bà-thi Phật là danh hiệu phiên âm từ Pāli ngữ Vipassī, Sanskrit: Vipaśyin; có nghĩa là cái nhìn đặc biệt, cái nhìn sâu sắc và thanh tịnh; cách nhìn này xuyên suốt thấu đáo mọi vấn đề.
(Xem: 22524)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 8927)
Trong lịch sử tôn giáo của nhân loại rất hiếm có bậc lãnh đạo tinh thần - qua lời nói, hành động và khả năng thiện xảo - làm tăng động lực và tạo một chuyển hướng mới cho tôn giáo, Đức Phật là một khuôn mặt hiếm hoi trong các bậc này.
(Xem: 10158)
Cho đến nay, người ta vẫn chưa biết chính xác bản kinh Pháp Hoa này được thiết lập khi nào, ở đâu và được ghi lại bằng ngôn ngữ nào trước hết.
(Xem: 16862)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 8295)
Việc nghiên cứu Kinh Lăng-già, đã được ngài D.T.Suzuki thực hiện, qua tác phẩm “rất thẩm quyền”: Studies in the Lankavatara Sutra – nghiên cứu về kinh Lăng-già.
(Xem: 19116)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 8019)
Chính pháp trụ một nghìn năm, tượng pháp trụ một nghìn năm, mạt pháp trụ một vạn năm. Thuyết này trích trong Kì-hoàn tinh xá bi.
(Xem: 6971)
Nhị đếtục đếchân đế, còn gọi là chân lý tương đốichân lý tuyệt đối hay chân lý thế gianchân lý xuất thế gian.
(Xem: 8240)
Phật giáocách sống dựa trên việc rèn luyện tâm. Mục đích cao nhất là để đi trên con đường giải thoát khỏi đau khổ, và đạt đến Niết Bàn,
(Xem: 8581)
Trong 2 giai tầng của việc phát triển tâm giác ngộ nguyện vọng và dấn thân, chỉ với việc dấn thân chúng ta mới thọ giới Bồ tát.
(Xem: 9684)
Trích từ quyển How to See Yourself as You Really Are của Đức Đạt Lai Lạt Ma - Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 9549)
Thực chứng giáo lý duyên khởi, người thông tuệ hoàn toàn không vướng vào những quan điểm cực đoan...
(Xem: 7737)
Công cuộc hiện đại hóa giáo dục đại họcTrung Quốc bắt đầu từ việc chính phủ Mãn Thanh xây dựng “Kinh Sư Đại Học Đường” năm 1910 chiêu sinh sinh viên chính quy đầu tiên.
(Xem: 8306)
Đức Phật nói, nếu giữ tâm vững như hòn đảo trước phong ba bão táp của cuộc đời thì chúng ta sẽ có được chất liệu an vui, an vui về thái độ, tinh thần...
(Xem: 8310)
Phật dạy thân người do tứ đại gồm bốn chất đất-nước-gió-lửa hòa hợp lại hình thành; đất với gió lại không thuận với nhau, gió thổi mạnh thì đất rung rinh..
(Xem: 7951)
Phật dạy trong mỗi người chúng ta đều có phần tâm linh sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết không lầm lẫn, sự vật như thế nào thì biết rõ như thế đó;
(Xem: 8456)
Thực tại nền tảng của thế giới Hoa Nghiêm là Phật Tỳ-lô-giá-na (Vairocana). Đây là Pháp thân của Đức Phật Thích-ca và cũng là Pháp thân của tất cả chư Phật.
(Xem: 9988)
Dựa trên giả định các hoạt động của Tâm tạo ra những cấu trúc não bộ mới (Hebb 1949) cho biết ý tưởng, tình cảm có thể để lại dấu ấn
(Xem: 9011)
Là giai đoạn duy nhất trong kinh nghiệm cận tử liên quan đến việc nhận thức thế giới mang tính vật lý hơn là tính tâm linh...GIDEON LITCHFIELD
(Xem: 8804)
Khi Mâu Tử, một tri thức Tàu, tị nạn tại Giao Châu và viết trong Lý Hoặc Luận vào cuối thế kỷ thứ 2 sau tây lịch rằng, “Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất,”
(Xem: 8049)
Nếu quý vị không có tuệ giác trong cung cách chính mình và mọi thứ thật sự là, quý vị không thể nhận ra và xa lánh những chướng ngại...
(Xem: 9967)
Tâm ta là vật quan trọng nhất. Mọi sự đến từ tâm, vì thế tất cả những gì không ai ưa thích mà giờ đây ta đối mặt cũng đến từ tâm.
(Xem: 9875)
Những giác quan của chúng ta góp phần cho sự si mê của chúng ta. Đối với những tính năng của chúng ta về thấy, nghe, ngửi, nếm, và cảm giác, những đối tượng dường như tồn tại trong tự bản chất của nó.
(Xem: 9374)
Chết là một bộ phận trong sự sống của chúng ta. Dĩ nhiên, theo quan điểm của Phật Giáo, thân thể này trong một ý nghĩa nào đó là một kẻ thù.
(Xem: 10264)
Bất cứ ai quan tâm đến lịch sử Đức Phật đều muốn biết về bữa ăn cuối cùng của Ngài do ông Thuần Đà (Cunda) cúng dường,
(Xem: 14589)
Là vị Bồ Tát tiêu biểu cho Trí Tuệ, Bồ Tát Văn Thù thường được miêu tả với dáng dấp trẻ trung ngồi kiết già trên một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen.
(Xem: 9137)
Đức Phật là một bậc đạo sư thực tiễn. Mục tiêu duy nhất của Ngài là giải thích tất cả chi tiết trong vấn đề của khổ là thực tế phổ biến của cuộc đời.
(Xem: 8628)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 9779)
Khi mới thành đạo, đức Phật đã nói: “Lạ thay tất cả chúng sanh đều có đức tính trí huệ của Như Lai mà bị vô minh che lấp nên không phát hiện ra được”.
(Xem: 15797)
Ở đời tuổi tác là một nhân tố quan trọng tác thành nên vị trí của cá nhân trong cộng đồng. Trong đạo cũng vậy, những bậc truởng lão, thâm niên lại càng được kính nể và tôn trọng hơn.
(Xem: 8205)
Bảy yếu tố khiến Tăng đoàn hưng thịnh hay còn gọi là bảy pháp bất thối được đề cập trong bài kinh Đại bát Niết bàn, gồm: Có Tín tâm, có Tàm, có Quý, Đa văn, Tinh tấn, Chánh niệmTrí tuệ.
(Xem: 11137)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh.
(Xem: 11797)
Đạo đức học là một bộ phận của triết học nhằm dựa vào lý tríthiết lập một sự phân biệt giữa thiện và ác, giữa điều được làm và điều bị cấm làm.
(Xem: 8883)
Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.
(Xem: 9115)
Điều cần bảo vệ chính là cái tâm của người con Phật, biết kiên trì thực hành những lời Phật dạy để đem lại an lạc cho chính mình và những người chung quanh
(Xem: 12040)
Chữ “giác ngộ” trong Đạo Phật, tiếng Pali và Sanskrit đều là “Bodhi”. Tiếng Anh là “enlightenment” hay “awakening”
(Xem: 9450)
Chúng tôi đã thuyết giảng về những cảm xúc đau khổ và các tai hại mà chúng sẽ gây ra cho việc hành trì tu tập của chúng ta.
(Xem: 21758)
Chúng ta đã biết đời là vô thường đau khổ, nhưng chúng ta còn cố chấp cái ngã, cái ta, cố bám víu vào cái của ta, thì chúng ta không thể trừ bỏ được kiêu mạn,
(Xem: 15305)
Người Phật tử có trí và hiểu đạo chỉ quan tâm khiến cho mỗi đời sống là một bước tiến trên con đường tiến bộ tâm linh không ngừng, dẫn tới sự giải thoátgiác ngộ tối hậu...
(Xem: 8681)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộVãng sanh khác nhau thế nào?
(Xem: 9384)
Khi đã biết nghiệp báo nhân quả không thể tránh, khủng khiếp như thế, chúng ta phải cố gắng tránh làm ác từ ý nghĩ, lời nói đến việc làm
(Xem: 7828)
Khảo sát hiện tượng "hội nhập văn hóa" tại một trung tâm Phật giáovị trí quan trọng vào hàng nhất nhì ở thời Lý-Trần như chùa Quỳnh Lâm...
(Xem: 9418)
Ta-bà là chu kỳ của sự hiện hữu (sự sinh, sự sống và cái chết) chi phối bởi nghiệp (karma). Đấy là chiếc bánh xe của khổ đau hình thành từ các hiện tượng của sự hiện hữu
(Xem: 9463)
Chúng ta sợ đủ thứ: sợ chết, sợ khốn khổ, sợ bị chê bai chỉ trích, và trên tất cả, hình như chúng ta rất sợ sự thật.
(Xem: 10445)
Con người sanh ra trên cõi đời này đã mang theo nghiệp nhân của đời trước, lúc lớn lên lại gây tạo thêm nghiệp mới.
(Xem: 8881)
Tất cả việc làm của Phật giáo đều tập chú vào lợi ích cho chúng sanh. Chúng sanh là đối tượng duy nhất của Phật giáo.
(Xem: 14923)
Mặc dù các tôn giáo nhất là Phật giáo đều nhấn mạnh đến vấn đề Nhân Quả - Nghiệp báo, song Luật Nhân quả không phải là của riêng một tôn giáo nào, nó là một luật của tự nhiên
(Xem: 8043)
“Sống Tỉnh Giác” là sống tỉnh chứ không còn ngủ mê nữa. Đây là đi vào thực hành chứ không phải là học, hiểu hay lý luận suông.
(Xem: 8378)
Sau khi trở thành phật tử, có tam qui, ngũ giới rồi, người phật tử phải sống ra sao để an lạc hạnh phúc?
(Xem: 8443)
Tất cả chúng ta đều có duyên lớn được gặp Phật pháp, được học Phật, được có người chỉ đường, có bản đồ sẵn hết rồi, chỉ còn một việc là bước đi để trở về.
(Xem: 8862)
‘Tâm’ là chữ thường xuyên xuất hiện với người Phật tử mỗi khi nói đến tu tập . Thật vậy, nào là ‘Tu tâm’ , ‘một niệm ở tâm ta’ , nào là ‘giữ tâm ý trong sạch ’ , ‘
(Xem: 9159)
Chánh Giáo (Tam Bồ Đề_ Sambhodhi) cùng Giải Thoátmục đích chung của Phật và các đệ tử Thanh Văn...
(Xem: 8660)
Cầu xin mà có hiệu qủa, chẳng có ai không cầu, cứ ngồi đó mà cầu nguyện là tự có tất cả, chẳng phải làm việc vất vả, cần gì phải học hành cực nhọc....
(Xem: 8228)
Phật Giáo Ấn ĐộTây Tạng phân loại và hệ thống hóa toàn bộ giáo huấn của Đức Phật thành ba chu kỳ khác nhau gọi là "ba vòng quay của bánh xe Đạo Pháp"
(Xem: 7770)
Con Đường Của Bụt là chủ đề của khoá tu An Cư Kiết Đông năm 2008 - 2009. Đây là con đường Bụt đã đi, và chúng ta đang đi theo sự hướng dẫn của Ngài.
(Xem: 9942)
con người, chúng ta có khuynh hướng bám víu vào đời sống của chính mình. Nhà Phật gọi đó là chấp thủ.
(Xem: 7957)
Con người luôn sống trong sợ hãi từ hiện tại cho đến vị lai, là do chính mình gây tạo nên bằng những hành động, lời nóiý nghĩ bất thiện
(Xem: 7897)
Kinh điển thường ví giận dữ như một cơn điên. Người điên cuồng không kiềm chế được ý thức nên hành vi, cử chỉ, việc làm gây thương tổn bản thân và người khác.
(Xem: 6998)
Trồng nhân thiện nhất định được quả thiện, tạo ác nghiệp nhất định chiêu quả khổ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant