Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Triết Lý Hoa Sen Và Ý Nghĩa Tam Thừa Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

11 Tháng Chín 201516:06(Xem: 12424)
Triết Lý Hoa Sen Và Ý Nghĩa Tam Thừa Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
TRIẾT LÝ HOA SEN VÀ Ý NGHĨA TAM THỪA
TRONG KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Thích Giác Chinh

Triết Lý Hoa Sen Và Ý Nghĩa Tam Thừa Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

 

Hoa senbiểu tượng triết lý, tượng trưng cho sự thuần khiếtsinh hóa hồn nhiên[1] trong Phật giáo. Phật giáo Đại thừa[2] sử dụng Liên hoa diệu pháp hay Diệu pháp liên hoa[3] là hình ảnh liên hệ mật thiết đến Niêm hoa vi tiếu[4] và là biểu ngữ ẩn dụ của Tam thừa.[5]

Hoa Sen biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiếtthánh thiện, sự duy trì và phát triển Phật pháp, trí tuệ dẫn đến Niết Bàn. Hoa senhình ảnh nhập thế một cách tích cựctiêu biểu nhất. Trên thế giới ít có loài hoa nào có nhiều phẩm chất cao quý như hoa sen. Bởi vậy mà nhà Phật ví nó như những đức tính của người tu hành giải thoát. Điển hình như, khi lễ Tam bảo, hai bàn tay chắp lại làm thành hình hoa sen búp, được gọi là phép lễ lạy “Liên hoa hiệp chưởng”. Bộ Tam y của một vị thầy Tỳ-kheo dùng để mặc hàng ngày và trong nghi lễ được gọi là “Liên hoa phục” hay còn gọi là “Liên hoa y”. Trong thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà được gọi là “Liên Bang”. Theo Tịnh Độ tông hay còn gọi là Liên tông thì trong thế giới này có rất nhiều hoa sen tinh khiết, thơm ngát hương, v.v… Theo một số giải thích của Tổ sư Liên tông, các nhóm bạn thân hữu cùng tịnh nghiệp để tu tập được gọi là “Liên xã” và thời gian được dùng để niệm Phật được gọi là “Liên liêu”, v.v… Đôi lúc trong đời sống hàng ngày người ta khen tặng một người có đôi mắt trong sáng, tươi đẹp thì gọi là “người có mắt sen” như người Ấn Độ đã gọi “Sri Krishna”, có nghĩa là đôi mắt hoa sen, v.v… rất nhiều ví dụ thú vị.

Ý nghĩa chung nhất cho triết lý loài hoa tinh khiết này là sự tượng trưng cho Tam Bảo – Phật, Pháp, Tăng và là biểu tượng của các đức hạnh Trí tuệ, Hỷ xả, Tinh tấn, Thanh tịnh, Từ bi. Hoa sen mọc trong đầm nước, từ một cõi trần ô trọc, bùn dơ nước đục đã vươn lên trở thành một bông hoa thanh cao, bông hoa thơm ngát, bông hoa của vũ trụ. Bông hoa này đã đi vào tâm thức của mọi người, trở thành hình tượng trong nghệ thuật, văn chương, kiến trúc - điêu khắc và cả trong đời sống hằng ngày... Đặc biệt, hoa sen trở thành biểu tượng trong nghệ thuật Phật giáo và nghệ thuật triết lý của Phương Đông. Nó tượng trưng cho vẻ đẹp thần bí, huyền ảo, tư tưởng sâu kín.

Trong nghệ thuật Việt Nam, hình tượng hoa sen dày đặc từ các phù điêu, đá tảng kê chân cột, bệ tượng Phật đến các dáng gốm và họa tiết trang trí. Hoa sen đã hóa thân vào những bài ca dao, tục ngữ, và câu truyền khẩu trong dân gian, đó là sự dung hòa triết lý Phật giáo và triết lý dân tộc Việt Nam:

“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng…”

Hay:

“Sen nở trong đầm đỏ trắng phơi,
Bùn nhơ không nhiễm sắc thêm tươi.
Thân ngay, ngó rỗng, gương đầy hột.
Cái lý tu hành cũng thế thôi.”

Sở dĩ người ta cho rằng hoa sen luôn gắn với Phật giáo là vì ở loài hoa này trong hoa đã có quả, nên cách gọi bao hàm nghĩa rộng trong trường hợp này là “vị liên cố hoa”, tượng trưng cho ý nghĩa của triết lý “nhân quả”, mang ý nghĩa Đạo đức học trong triết học Phật giáo.

Việt Nam, có một vài huyền thoại gắn với hoa sen như trong các sách sử phả ký và trong Đại Việt sử ký có ghi: khi Hoàng Hậu Đặng Thị[6] có thai vua Lê Đại Hành (941 - 1005), nhân một đêm nằm ngủ Bà mơ thấy bụng nở hoa sen. Đức vua Điều ngự Giác HoàngTrần Nhân Tông (1258 - 1308) nằm ngủ ở trong Chùa Tư Phúc mơ thấy ở bụng mình, ngay rốn mọc lên một hoa sen, trên hoa sen có một vị Phật thân mình vàng sắc ánh. Vào năm 1049, vua Lý Thái Tông (1028 - 1054) mơ thấy Đức Phật Quan Âm ngồi trên đài sen dắt vua lên ngự ở tòa chính điện trong cung. Chính vì thế mà Liên Hoa Đài[7] (蓮 花 臺) tức là “đài hoa sen” được xây dựng phỏng theo giấc mơ của vua Lý Thái Tông, còn được gọi là Diên Hựu Tự (延 祐 寺) hay Chùa Một Cột, hiện nằm giữa lòng thủ đô Hà Nội. Đó là một số hình ảnh liên đới giữa truyền thống dân tộc và Phật giáo Việt Nam biểu hiện qua triết lý hình tượng hoa sen trong Đạo Phật.

Trước khi tìm hiểu ý nghĩagiá trị Tam thừa trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thiết nghĩ trước hết chúng ta cần hiểu sơ lược về từ nguyên của đề kinh. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa theo tiếng Phạn (Sanskrit) là Saddharmapuṇḍarīka-sūtra. Trong bản dịch Hán Tạng – Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh (大 正 新 脩 大 藏 經) cao Tăng đời Tây Tấn, nước Nguyệt ThịTam Tạng Trúc Pháp Hộ[8] dịch từ “Sad”[9] trong Phạn bản là “Chánh” như thấy trong Đại Tạng “正 法 華 經”[10], nhưng Ngài Tam tạng Pháp sư Cưu-ma La-thập đời Hậu Tần nước Quy Tư phụng chiếu dịch”[11] từ “Sad” trong Phạn bản là “Diệu” như đã được thấy trong Đại Tạng là “妙 法 蓮 華 經”[12]. Ở Việt Nam, Hòa thượng Thích Trí Tịnh cũng dịch là “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh”[13]; “Dharma”[14] là Pháp; “Puṇḍarīka”[15] là Hoa Sen Trắng; “Sūtra”[16] là Kinh. Ở Việt Nam các dịch giả dịch đầy đủ là “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” như đã thấy lâu nay đã truyền bản, còn được gọi tắt là Pháp Hoa Kinh.

‘Phương’ theo tiếng thuần Việt là phương hướng, phương pháp, phương tiện, v.v…, ‘Tiện’ là dễ dàng, thuận lợi, tiện dụng, tiện ích, tiện lợi, tiện nghi, v.v… “Phương tiện” được hiểu và sử dụng như là một phương pháp thiện xảo, thường xuất hiện trong các bản kinh tiếng Phạn là: upāya-kauśalya (S.), và một số ít kinh điển Pàli là: upāya-kusala.

Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đức Phật Thích Ca đã thị hiện để giúp chúng sanh “ngộ nhập Phật tri kiến”. Có nghĩa là Phật chỉ tuỳ cơ duyên, sử dụng các phương tiện bằng niềm tin (S. upāya) mà nói Tam thừa nhưng thực chất chỉ có Phật thừa (S. buddhayāna) dẫn đến giác ngộ. Quan điểm này được làm sáng tỏ bằng ẩn dụ một người cha vì muốn cứu những đứa con ham chơi, không biết nghe lời ra khỏi căn nhà đang cháy nên người cha đành phải hứa cho mỗi người con một món quà tuỳ ý thích của chúng, đứa thì được xe nai, đứa xe dê,... để dụ chúng ra ngoài. Đó là lối giáo hóa tùy duyên làm lợi ích cho chúng sanh, cho hữu tình. Đó là kim chỉ nam cho Phật giáo nhập thế.

Triết lý này như một định hướng có thể vận dụng để giải quyết các vấn đề về xã hội. Hãy cố giúp mọi người, mọi ngành khoa biết rõ về bản chất sự vật hiện tượng vốn y như thật, y như bản nguyên, dù được biểu hiện ở khía cạnh nào đi nữa thì chẳng qua đó chỉ là phương tiện. Do vậy, con người trong xã hội cần phải sống hòa hợp, hòa bình, phát triển và tiến bộ.

 _____________________________

 [1] Monier-Williams, Sanskrit – English Dictionary, phiên bản offline chạy trên Windows.

[2] H. 大 乘, S. Mahāyāna, dịch âm Hán-Việt là Ma-ha-diễn-na (H. 摩 訶 衍 那) hay Ma-ha-diễn (H. 摩 訶 衍), tức là “cỗ xe lớn” hay còn gọi là Đại Thặng tức là “bánh xe lớn” là một trong hai trường phái lớn của Phật giáo; trường phái còn lại là Theravāda (P.), S. Hīnayāna.

[3] 經 文 資 訊, 大 正 新 脩 大 藏 經 第 九 冊, No. 262 “妙 法 蓮 華 經”: (Kinh văn tư tấn), Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, đệ cửu sách, số 262, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Một trong những bộ kinhPhật giáo Đại thừa xem quan trọng nhất, được lưu hành rộng rãi đó là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (H. 妙 法 蓮 華 經, S. saddharmapuṇḍarīka-sūtra), cũng được gọi vắn tắtkinh Pháp hoa (H. 法 華). The Lotus Sutra, Tshò Volume 9, Number 262, Translated from the Chinese of Kumàrajiva, by Tsugunari Kubo and Akira Yuyama, Numata Center for Buddhist Translation and Research, 2007. Trong dịch bản English, các dịch giả, các nhà xuất bản dịch Saddharmapuṇḍarīka-sūtra là: “The Lotus Sutra” hoặc là “The Saddharmapundarika Sutra” do An abridged rendering produced for WBO Day ’99 ấn hànhphiên dịch.

[4] Niêm hoa vi tiếu (H. 拈 花 微 笑) có nghĩa là: cầm hoa mỉm cười. Đây là một giai thoại thiền, ghi lại sự kiện Đức Phật đưa cành hoa lên khai thị, Tôn giả Ca Diếp mỉm cười, là ý nghĩa chỉ có sự giao cảm, sự rung động giữa hai tâm thức Thầy và Trò, và hai tâm thức này đã đồng nhất. Đó là cái tâm vi diệu Niết-bàn.

[5] H. 三 乘, S. Triyāna; là ba cỗ xe đưa đến Niết-bàn (H. 涅槃, S. Nirvāṇa, P. Nibbāna), đó là Thanh Văn Thừa (H. 聲 聞 乘, S. śrāvakayāna), Độc giác thừa (H. 獨 覺 乘, S. pratyekabuddhayāna) và Bồ-tát thừa (H. 菩 薩 乘, S. bodhisattvayāna).

 

[6] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản kỷ, Quyển 1, Kỷ Nhà Lê, Mục Đại Hành Hoàng Đế.

[7] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, bản kỷ toàn thư, quyển 2.

[8] 經 文 資 訊, 大 正 新 脩 大 藏 經 第 九 冊 No. 263 “正 法 華 經” (Kinh văn tư tấn), Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh đệ cửu sách, No. 263, Chánh Pháp Hoa Kinh.

[9] Vaidya, Dr. P.L ed. Buddhist Sanskrit Texts No. 6 Saddharmapuṇḍarīka-sūtra, Darbhanga: The Mithila Institute, 1960.

[10] Sđd, 大 正 新 脩 大 藏 經 第 九 冊 No. 263 “正 法 華 經”.

[11] 經 文 資 訊, 大 正 新 脩 大 藏 經 第 九 冊, No. 262 “妙 法 蓮 華 經”: (Kinh văn tư tấn), Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, đệ cửu sách, 262, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.

[12] Sđd, 大 正 新 脩 大 藏 經 第 九 冊, No. 262 “妙 法 蓮 華 經”.

[13] Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, dịch giả: HT. Thích Trí Tịnh, Nxb Tôn Giáo, 2008.

[14] Sđd, Vaidya, Dr. P.L ed. Buddhist Sanskrit Texts No. 6 Saddharmapuṇḍarīka-sūtra.

[15] Sđd, Vaidya, Dr. P.L ed. Buddhist Sanskrit Texts No. 6 Saddharmapuṇḍarīka-sūtra.

[16] Sđd, Vaidya, Dr. P.L ed. Buddhist Sanskrit Texts No. 6 Saddharmapuṇḍarīka-sūtra.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30277)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 25052)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 30256)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 12206)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 30377)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 33742)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 28270)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 16837)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 29451)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 9110)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 27681)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 22047)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 22615)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 13387)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 13546)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 14163)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 28821)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 14263)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 29072)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 35197)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 34037)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 34924)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 14308)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 13451)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 19563)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 20718)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 13961)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 13083)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 14659)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 13857)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 13858)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 12976)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 13281)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 11755)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 12210)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 30535)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 12436)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 12586)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 14939)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 12306)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 12794)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 12357)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 12610)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 29372)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 14246)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 16403)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 12655)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 22315)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 13810)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 12919)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 12214)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 25971)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 13058)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 13774)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 14551)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 12620)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 41332)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 12039)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 13905)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 20079)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant