Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giới thiệu tổng quát các công trình nghiên cứu sử học của sử gia Lê Mạnh Thát

05 Tháng Mười 201000:00(Xem: 12838)
Giới thiệu tổng quát các công trình nghiên cứu sử học của sử gia Lê Mạnh Thát

GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU SỬ HỌC

Của SỬ GIA LÊ MẠNH THÁT

Nhìn tổng quát công trình nghiên tầm, khảo cứu các văn kiện, tài liệu cổ để tập thành các tác phẩm qua các bộ môn: Lịch Sử, Văn Hóa, Văn Học, Âm Nhạc, Triết học, Thiền học... của Tiến sỹ Sử gia Lê Mạnh Thát là một thành quả to lớn được kết tinh bởi một trí tuệ siêu tuyệt, một khả năng hy hữu, một thời gian liên lũy, lâu dài, qua nhiều thập niên. Đó là những yếu tố mà ít người có được, để lưu lại cho hậu thế những thành quả văn học đồ sộ và chuẩn xác trên dòng sử mệnh quê hương.


Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá mà suốt một dòng thời gian hơn 2000 năm qua bị tản thất, vùi dập trong sự lãng quên. Thầy đã khám phá những chứng tích lịch sử mà từ trước đến nay chưa được thấy trên diễn đàn văn học nước nhà. Từ đó Thầy đã cống hiến những tác phẩm dày công sưu khảo, đầy giá trị sử học vào kho tàng Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam ngày thêm phong phú và đa dạng. Chúng tôi kính giới thiệu đến quý vị một số tác phẩm như sau:

1. Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam - 3 tập.
2. Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam - 3 tập.
3. Toàn Tập Minh Châu Hương Hải.
4. Toàn Tập Trần Thái Tông.
5. Toàn Tập Trần Nhân Tông.
6. Toàn Tập Toàn Nhật Quang Đài.
7. Nghiên Cứu Về Mâu Tử - 2 tập.
8. Chân Đạo Chánh Thống.
9. Lịch Sử Âm Nhạc Phật Giáo Việt Nam.
10. Tự Điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam - 2 tập.
11. The Philosophy of Vasubandhu.
12. Ngữ Pháp Tiếng Phạn

Từ những tác phẩm trên, và qua lời tựa của tác phẩm Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam, đã tạo nên những cảm xúc thâm trầm cho thấy Phật Giáo Việt Nam và dân tộc Việt Nam đã hòa quyện với nhau kể từ khi Phật Giáo được truyền vào quê hương Việt Nam cho đến ngày hôm nay. Suốt một dòng lịch sử hơn 2000 năm qua, Phật Giáo đã hòa mình theo vận nước, đã thăng trầm theo thời cuộc. Chưa có một thời gian nào, một triều đại nào mà Phật Giáo tách khỏi dân tộc, không cùng chung vai gánh vác sơn hà xã tắc qua những cơn nguy biến.

Trong chiều dài lịch sử đó, Chư vị Thiền Sư, quý Phật tử đã thực sự đem tài ba lỗi lạc của mình, đem trí não tâm linh để tài bồi xây dựng cho kho tàng văn hóa nước nhà có được những tư liệu đồ sộ, giá trị quý báu.

Tuy nhiên, cho đến ngày hôm nay, công trình khảo cứu vẫn chưa hoàn tất trong nguồn tư liệu có được. Chúng ta phải dày công nghiên cứu và đóng góp nhiều hơn nữa để khai triển và hệ thống hóa một cách nghiêm túc trên nền tảng các chứng tích, tư liệu đó. Chúng ta cần gia công bảo trì và phát triển nền văn hóa dân tộc ngày thêm lớn mạnh, nhằm góp phần xây dựng đời sống văn minh tiến bộthánh thiện cho con người hôm nay và mai sau.

Qua lời đầu sách đã cho chúng ta một ý thức rằng kho tàng tri thức của các Thiền sưPhật tử còn tàng trữ quá nhiều ở các ngôi cổ tự, đại tòng lâm. Dưới những mái chùa mà thời gian đã hóa thành rêu phong phủ kín đã lưu xuất những bông hoa trí tuệ để cống hiến cho nền Văn hóa đặc thù của dân tộc quê hương.

Nội dung của Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam quyển I khảo cứu về Mâu Tử, Lý hoặc LuậnKhương Tăng Hội.

Lời dẫn về Lý hoặc Luận:
"... Trong cuộc đấu tranh và phát triển đầy cam go gian khổ, nhưng cũng đầy hào hùng hoành tráng của dân tộc, mỗi khi lịch sử bước vào những giây phút thử thách gay gắt quyết liệt, sống mái với kẻ thù, những khuôn mặt anh tài luôn luôn xuất hiện đứng ra gánh vác trách nhiệm, góp sức đưa con thuyền dân tộc đến bến vinh quang. Vào cuối thế kỷ thứ II, sau dương lịch, dân tộc ta đang đối đầu với viễn ảnh có thể bị đồng hóa vào nền văn hóa Trung Quốc, thì một khuôn mặt anh tài đã ra đời, đó là Mâu Tử cùng tác phẩm Lý hoặc Luận nổi tiếng của ông."

Qua phần II, tác giả trình bày về Khương Tăng Hội - Cuộc ĐờiSự Nghiệp:

"... Kể từ ngày Trần Văn Giáp giới thiệu Khương Tăng Hội như một trong những nhà truyền giáo đầu tiên của đạo Phật ở nước ta, những người viết sử về sau đã tiếp tục đánh giá vị trí, vai trò cũng như những đóng góp của Khương Tăng Hội đối với lịch sử dân tộc Việt, không hơn không kém là một nhà truyền giáo đầu tiên. Việc giới thiệu sai lầm này dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng, mà một trong những số đó là việc nghiên cứu Khương Tăng Hội đã không được tiến hành nghiêm túc để khám phá những đóng góp của Khương Tăng Hội không những đối với lĩnh vực lịch sử Phật Giáo Việt Nam, mà còn với nhiều lãnh vực khác nữa, đặc biệt là lĩnh vực lịch sử với truyền thuyết trăm trứng và lịch sử ngôn ngữ tư tưởngvăn học Việt Nam. Ngày nay, với những thành quả nghiên cứu có được, chúng ta có thể khẳng định Khương Tăng Hội không phải một nhà truyền giáo đầu tiên của Phật GiáoViệt Nam, mà là một thành tựu đầu tiên của nền Phật Giáo ấy, để cùng với Mâu Tử hình thành một mặt trận văn hóa phản công lại những trận tiến công như vũ bão của nền văn hóa nô dịch Trung Quốc đang xảy ra vào thời đó, và khẳng định sức sống ưu việt của nền văn hóa Việt NamPhật Giáo Việt Nam."

Mỗi khi đề cập đến Khương Tăng Hội thì chúng ta không thể không nói đến Lục Độ Tập Kinh. Đây là tác phẩm nổi tiếng của Ngài. Qua công trình sưu khảo và nghiên cứu Lục Độ Tập Kinh. Thầy viết:

"... Nếu lịch sử văn họcvăn hóa thành văn thời Hùng Vương còn để lại cho đến nay qua một bài Việt Ca duy nhất còn đang bàn cãi thì lịch sử văn họcvăn hóa Việt Nam sau thời Hai Bà Trưng và trước Lý Nam Đế có thể được nghiên cứu qua một loạt những tác giả lớn như Mâu Tử, Khương Tăng Hội, Đạo Hinh, Đạo Cao, Pháp Minh và Lý Miễu, trong đó nổi bật nhất là Khương Tăng Hội với Lục Độ Tập Kinh.

Lục Độ Tập Kinh là văn bản đầu tiên và xưa nhất ghi lại tình tiết 100 trứng của truyền thuyết khởi dân tộc tính. Lục Độ Tập Kinh cũng là tác phẩm đầu tiên và xưa nhất ngoài bài Việt Ca, còn bảo lưu được một số trên 15 trường hợp các cấu trúc ngữ học theo văn pháp tiếng Việt và cung cấp một số lượng đáng kể các tá âm cho việc nghiên cứu tiếng Việt cổ và phục chế lại diện mạo tiếng nói ấy cách đây 2000 năm. Lục Độ Tập Kinh còn là nơi tập đại thành những chủ đề tư tưởng lớn của dân tộc như nhân nghĩa, trung hiếu, đất nước, mất nước v.v... làm cột sống cho chủ nghĩa nhân đạo Việt Namtruyền thống văn hóa Việt Nam. Lục Độ Tập Kinh còn là văn bản thiết định những chủ đề tư tưởng lớn của Phật Giáo Việt Nam, làm tiền đề cho những phát triển tư duy Phật Giáo Việt Nam, mà thành quả đầu tiên phát hiện cho đến nay là sáu lá thư trao đổi giữa Lý Miễu, Đạo Cao và Pháp Minh vào khoảng những năm 450.

Lục Độ Tập Kinh vì thế là một tác phẩm văn học lớn không chỉ của lịch sử Phật Giáo Việt Nam mà còn là lịch sử văn học tư tưởngvăn hóa dân tộc."

Để thấy rõ hơn về nội dung tư tưởng Lục Độ Tập Kinh, đủ nguồn cảm hứng và khả năng truyền tải giá trị cao thượng, xây dựng đời sống dân sinh thăng hoa trên giai tầng tâm linh mà còn là bản kinh lòng, lời kinh ruột của Bồ Tát đạo, Bồ Tát hạnhBồ Tát nguyện:

"... Lục Độ Tập Kinh như nhan đề chỉ ra, là một tập kinh trình bày sáu hạnh vượt bờ của Bồ Tát, tức bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ. Lý tưởng Bồ Tát trong thời kỳ đầu của Phật Giáo ở nước ta, do thế, đã được xiển dương mạnh mẽ, đề cao những con người có lòng thương rộng lớn đối với tất cả người vật (bố thí), tự mình kiểm soát lấy mình (trì giới), kiên trì chịu đựng gian khổ, khó khăn (nhẫn nhục), năng động phấn đấu hoàn thành mục tiêu đã định (tinh tấn), bình tĩnh (thiền định) và sáng suốt (trí tuệ). Mẫu người lý tưởng của Phật Giáo, mẫu người có lòng thương, có kỷ luật, kiên trì, năng động, bình tĩnhsáng suốt, được định hình và kế hoạch thể hiện mẫu người này trong cuộc sống được vạch ra thông qua khuôn khổ các câu chuyện tiền thân của Đức Phật, cho các Phật tử Việt Nam thời Khương Tăng Hội và trước đó."

Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam quyển II, Thầy giới thiệu một số tác dịch phẩm của Khương Tăng Hội như: Cựu Tạp Thí Dụ Kinh, Pháp Kính Kinh Tự, An Ban Thủ Ý Kinh, Tạp Thí Dụ Kinh và sáu lá thư, Lý Miễu, Đạo Cao và Pháp Minh.

Ngang qua các bản dịch của Cựu Tạp Thí Dụ Kinh, Pháp Kính Kinh Tự và An Ban Thủ Ý Kinh Chú Giải... chúng ta thấy nội dung là những truyện cổ tích dân gian hướng con người trên việc hành thiện, trong nhân nghĩa thuần hậu và ý thức tôn vinh phẩm hạnh con người nhằm xây dựng một đời sống chân hạnh phúc trong cuộc đời này. Chính những truyện cổ tích này đã mang một nội dung giáo pháp nhân quả, nghiệp báo...:

"... Truyện một sự tích dưa hấu thực chất là một thuyết giảng về giáo lý nhân quả "ở hiền gặp lành" của Phật Giáo dân gian. Nó gồm hai đoạn. Đoạn 1 kể An Tiêm gốc là một nô tỳ, lấy được người con gái nuôi của Vua Hùng, ăn mặc sung sướng, của cải giàu có. Có người khen, An Tiêm nói đó là "vật tiền thân" của An Tiêm. Vua Hùng nổi giận, đày An Tiêm ra đảo. Đoạn 2 kể, Tiêm ở đảo, nhờ chim đem hạt dưa hấu đến, trở nên giàu có và được gọi về..."
Và còn rất nhiều những cốt truyện tương tự như vậy được trình bày trong Cựu Tạp Thí Dụ Kinh, một cách khuyến tấn con người phải biết ăn ở hiền lành, có thảo có ngay, sống đời đạo đức.

Về mặt Triết học kinh viện của giai tầng tri thức, của bậc thượng căn, thượng trí chúng ta thấy trong An Ban Thủ Ý Kinh Chú Giải lời văn khúc chiết, rành rõi, âm hưởng trùng điệp vang ngân bất tận, khi định nghĩa về tâm, Khương Tăng Hội đã viết:

"Tâm Chi dật đảng, vô vi bất hiệp
hoảng hốt phảng phất, xuất nhập vô gián
thị chi vô hình, thính chi vô thanh
nghênh chi vô tiền, tầm chi vô hậu
thâm vi diệu tế, hình vô ty phát
phạn thích tiên thánh, bất năng chiếu minh
mặc chủng vu thử, hóa sinh hồ bỉ
phi phàm sở đổ, vi chi ấm giả..."

Đây là bản kinh cốt lõi, làm chuẩn đích cho ai có lòng nghiên tầm, khảo cứu để hướng tâm trên con đường đạo. Nhưng đồng thời cũng chú trọng đến các lãnh vực như nghệ thuật, âm nhạc, văn học, Phật Giáo, chính trị, tư tưởng....
Qua bộ môn âm nhạc, Thầy viết:

".... Về vấn đề âm nhạc, những đóng góp của sáu lá thư ấy lại càng đặc sắc và quý giá hơn. Quý giá, bởi vì chúng là những văn kiện xưa nhất và duy nhất nói đến sự hiện diện một các không chối cãi ở nước ta những "ca tán tụng vịnh".

Từ đó, cho thấy tối thiểu vào đầu thế kỷ thứ V, âm nhạc Việt Namâm nhạc Phật Giáo Việt Nam gồm những thứ gì. Đặc sắc, bởi vì nếu phối hợp báo cáo âm nhạc vừa nói với những hình ảnh nhạc cụ trên những bệ đá của nền nghệ thuật Tiên Sơn, chúng ta có thể rút ra những kết luận rất lôi cuốn về lịch sử âm nhạc Việt Namlịch sử âm nhạc Phật Giáo Việt Nam, đồng thời giải thích cho thấy, tại sao trên những bệ đá ấy chúng ta chỉ có mười nhạc thần và chín thứ nhạc cụ tấu nhạc, để ca ngợi cúng dường người giác ngộ."

Từ những tư liệu có được của thời gian phôi thai, thuở ban sơ, trên dòng lịch sử của dân tộc, qua các tác phẩm đã xuất bản, Tiến sỹ Sử gia Lê Mạnh Thát đã công bố một cách minh nhiên và sẽ tiếp tục cống hiến những sưu khảo nhiều hơn nữa để hoàn thành sứ mạng của một Sử gia thời đại.

Công trình khảo cứu ấy, qua Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam quyển III, Thầy đã dãnh trọn quyển để in lại tác phẩm Thiền Uyển Tập Anh, chứng tỏ tác phẩm này đã nói lên vai trò vô cùng quan trọng trên lãnh vực văn học nước nhà và còn mang nhiều sắc thái độc đáo của lịch sử Phật Giáo đời Trần:

"... Thiền Uyển Tập Anh có một cống hiến thật đặc sắc, bởi vì nó là một tác phẩm đời Trần duy nhất còn lại, chứa đựng nhiều tên ấp, tên làng, tên quận, tên phủ và tên Châu của đời Lý cũng như đời Trần hơn bất cứ một tác phẩm nào khác, nếu hoàn thành, có thể nói ta đã vẽ lại được một phần bản đồ địa lý chi tiết của nước ta vào thời Lý một cách cụ thể nhờ vào tên các ngôi chùa gắn liền với các tên đất ấy."

Đó là trên bình diện địa lý, còn trên lãnh vực văn học, Thiền Uyển Tập Anh đã đóng một phận vị có tầm vóc ách yếu trên nền học thuậtthiền học ngang qua tinh thần tu chứng của Chư vị Thiền sư Tổ đức:

"... Rõ ràng, đối với lịch sử dân tộc ta, Thiền Uyển Tập Anh đóng một vai trò hết sức quan trọng và thiết yếu. Thiếu nó, thì cả mấy trăm năm lịch sử văn học dân tộc phai mờ thất tán đi không phải ít.... và vai trò ấy, thực tế, có một tầm quan trọng hơn nhiều, khi ta nhớ rằng nó tự bản chất là một bộ sử chuyên môn về Phật Giáo Thiền Tông Việt Nam. Mà Phật Giáo Thiền Tông Việt Nam vào mấy trăm năm ấy, nếu không nói là hệ tư tưởng chiếm ưu thế trong giai đoạn lịch sử đó."

Một Vạn Hạnh Thiền Sư đã hộ quốc an dân, xây dựng một triều đại vàng son cho dân cho nước, mà tinh thần tu chứng đã thể hiện qua bài kệ:

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Tùy vận thạnh suy hưu bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

Người đọc các văn kiện lịch sử, các chứng tích văn học, các nền văn hóa dân tộc và Phật Giáo Việt Nam qua Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam 3 quyển sẽ thấy được sự lịch lãm uyên bác đầy thực nghiệm của một sử gia đương đại, chỉ thu mình trong 3 quyển văn học ấy không thôi cũng đủ để chứng minh cho chúng ta thấy đâu là tri thức không chướng ngại, đâu là tài năng tập thành xuyên suốt thời gian không ngằn mé, và đâu là vượt thắng mọi chướng duyên để kiện toàn nguồn tư tưởng hãn hữu.

Qua bộ Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, bằng cái nhìn tổng thể của một sử gia, Thầy đã phân chia các chặng đường lịch sử không giống các nhà nghiên cứu khác. Trước tiên bằng nhận định xác thực thế nào là lịch sử? Và cấu trúc lịch sử được vận hành như thế nào qua mỗi thời đại, qua từng lớp người của bối cảnh lịch sử đó:

"... Đối với chúng tôi, lịch sử là một vận độngý thức của con người. Riêng đối với các tư trào văn hóa như Phật Giáo thì lịch sử như một cuộc vận độngý thức lại càng rõ nét hơn.

Lịch sử vận động trên căn bản tương tác của nhiều cấu trúc khác nhau. Có cấu trúc hạ tầng, có cấu trúc thượng tầng và những cấu trúc hàng ngang, hàng dọc đan xen lẫn nhau, trong đó cấu trúc hạ tầng tất nhiên giữ vai trò chủ chốt, nhưng không phải là tuyệt đối. Xuất phát từ một cái nhìn như thế, quan điểm của chúng tôi là nhìn lịch sử Phật Giáo như một bộ phận của cuộc vận động chung của dân tộc."

Từ nhận địnhlập trường trên, Thầy đã chia dòng lịch sử Phật Giáo Việt Nam 2000 năm thành 5 thời kỳ:

"Đó là thời kỳ Phật Giáo quyền năng, thời kỳ Phật Giáo vận động độc lập, thời kỳ Phật Giáo thế sự, thời kỳ Phật Giáo cư trần lạc đạothời kỳ Phật Giáo quần chúng... Mỗi thời kỳ này có một nét đặc trưng nổi bật của nó, mà ngay cả sự đổi thay của các triều đại và sự tồn tại những dòng Thiền khác nhau không có một ảnh hưởng to lớn nào. Lịch sử tuy là một vận độngý thức của con người, nhưng đồng thời cũng có quy luật của nó. Mà đã nói đến quy luật tức là nói đến tính tất yếu, mà mỗi ý chí của cá nhân không thể cưỡng lại được."

Đọc qua lịch sử Phật Giáo Việt Nam 3 tập dày khoảng 2500 trang, chúng ta thấy hệ thống tư liệu từng niên đại, từng nhân vật, từng cốt truyện được thẩm định rõ nét, chính xác để định vị trí chứng nhân của dòng lịch sử. Điều này chúng ta thấy trong phần Pháp Thuận và bài thơ Thần Nước Nam Sông Núi. Từ trước đến giờ theo tính truyền khẩu được luân lưu qua từng thế hệ, chúng ta cho rằng bài thơ Thần Nước Nam là của Lý Thường Kiệt trong cuộc chiến chống ngoại xâm năm 1076. Nhưng qua các tư liệu chứng minh thời bấy giờ, bài thơ Thần Nước Nam đó được coi là hiện hữu dưới thời Vua Lê Đại hành, trong cuộc chiến tranh năm 981:

Bài thơ Thần Sông Núi
1. Nam Quốc Sơn Hà Nam đế cư
Tiệt nhiên dĩ định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhử đẳng hành khan thủ bại hư.

2. Nam Quốc Sơn Hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhử đẳng hành khan thủ bại hư.

3. Nam Quốc Sơn Hà Nam đế cư
Hoàng Thiên dĩ định tại thiên thư
Như Kim Bắc lỗ lai xâm phạm
Hội kiến hải trần tận tảo trừ.

4. Nam Quốc Sơn Hà Nam đế cư
Hoàng Thiên dĩ định tại thiên thư
Như Hà Bắc lỗ cảm xâm phạm
Hội kiến phong trần tận tảo trừ.

Qua các luận cứ được thẩm định, để thấy được bài thơ Thần phát xuất từ đâu:

"... Theo chúng tôi, ta nên trả bài thơ Thần trên về cho cuộc chiến tranh 981 và chúng ta có đủ dữ kiện để làm như thế. Đây không phải là một kết luận mới. Hai bộ sử viết bằng tiếng Việt vào thế kỷ thứ 16 và 17, là Việt Sử Diễn Âm và Thiên Nam Ngữ Lục đều thống nhất có cùng một kết luận. Việt Sử Diễn Âm đã dành một đoạn dài nói về lai lịch của bài thơ này."

Đến đây, chúng ta thấy Toàn Tập Toàn Nhật Quang Đài là một tác phẩm sưu khảo và tác biên về cuộc đờisự nghiệp của Toàn Nhật. Một cách sơ lược về sự nghiệp văn học chúng ta thấy trong phần Tam Giáo Nguyên Lưu Ký, Viên Quang Tự Sa Môn Toàn Nhật Pháp hiệu Quang Đài, Ngài đã thể hiện tinh thần Tam Giáo Đồng Nguyên qua những vần thơ song thất lục bát:

"Thuở trời Xuân say nhuần mầu đạo
Trót nom theo Tam giáo chân tôn
Am mây gởi dấu thong dong
Tu thân ngày tháng sửa lòng hôm mai
Trải xưa định vị tam tài
Là trời, người, đất muôn loài nổi sinh."

Qua phần Tống Vương truyện đã thể hiện một nhân sinh quan vô cùng an nhiên tích cực, cho thấy Toàn Nhật là một trong những nhà thơ, nhà văn, nhà tư tưởng lớn của dân tộc Việt.
Tống Vương truyện đã dệt nên một truyện tình thơ mộng của một Thái tử, con vua, với người con gái mộc mạc làng chài lưới miền sông nước:

"... Long phi vân hán,
Phụng nhiễu quang minh
Ứng trinh tường xảy gặp điềm lành
Vừng đẩu tú trổ sanh thụy lạ
Có người Giang hạ
Tánh thật ngư ông
Việc võng la lưới tổ (chài) tôm
Nghề hà hải Giang Tân Sở trú
Kết duyên phu phụ
Hiệp bạn Châu Trần
Vô nam nhi kế tự tôn thân
Sinh nữ tử nối dòng tổ phụ..."

cuối cùng cái hậu của cốt truyện là Vua cha đi tu, giao ngôi Vua lại cho con:

"... Vua đà cao kỷ
Tác lớn trên đầu
Nhượng vị cho con
Sửa sang chính sự
.........
Hồi đầu Phật Tổ
Thế phát tu hành
Con nối ngôi truyền dõi đạo thanh
Muôn đời để lưu danh thiên hạ."

Những vần thơ ấy đã đề cao tinh thần dân chủ, tôn trọng tinh thần bình đẳng giữa loài người, không phân biệt giai cấp, ngôi vị. Giá trị ở đây là tư cách đạo đức nhân luân là nền tảng nhân bản được xây dựng trong tâm tư của mỗi con người. Dù người đó có địa vị, quyền cao, tước trọng nơi triều đình, hay lớp người dân giả bình dị vẫn được tôn trọng trong ý niệm hướng thượng. Từ đó, chúng ta thấy Lục Tổ Truyện Diễn Ca, Toàn Nhật đã hướng dẫn con người trên đường tìm cầu Chân lýcuối cùng thành đạt đạo quả giác ngộ. Đó là hình ảnh của Lục Tổ Huệ Năng, Người mang đá giã gạo suốt bao năm tháng, nhưng ý vị giác ngộ vẫn miên viễn trường tồn:

"... Đêm ngày chuyên niệm Di Đà
Chịu phần giã gạo vậy hòa tám thu
Bảo làm cho thấy công phu
Vai mang khối đá chuyên tu đến ngày
Phật Tổ khổ hạnh lắm thay
Sáu năm tuyết lãnh mới thành Kim thân."

Đó là giá trị của sự tu tập, mà bằng cái nhìn của Toàn Nhật lao tác là một thể thức của Thiền định - gánh nước, bửa củi, giã gạo. Từ tự tướng của chân tay đã thể hiện được tánh giác ngộ, trong sáng nơi tâm thanh tịnh thuần khiết của Phật tánh thường hằng như nhiên bất động"

"... Ca Sa bình bát pháp thiền
Bèn trao phú chúc về miền Thiền Châu
Dặn dò y chánh trước sau
Mấy lời Phật Tổ thẳm cao nhiệm mầu
Huệ Năng lễ tạ khấu đầu
Lạy từ Hòa thượng sẽ hầu lui ra."

Bước sang Toàn Tập Minh Châu Hương Hải được sưu khảo và tác thành qua những tư liệu có được. Thiền Sư là một nhà Văn hóa, Triết gia, Tư tưởng gia của Phật Giáo và dân tộc Việt Nam. Qua tác phẩm này, chúng ta thấy công trình văn học đồ sộ đã được lưu lại qua các tác dịch phẩm, hoặc chú giải như: Giải Kim Cương Kinh Lý Nghĩa, Giải Di Đà Kinh Sớ Sao, Giải Tâm Kinh Ngũ Chỉ, Sự Lý Dung Thông, Giải Pháp Hoa Kinh, Giải Sa Di Giới Luật, Soạn Quán Vô Lượng Thọ Kinh Quốc Ngữ ... tất cả trên 20 tác phẩm, gồm 30 quyển.

Là một nhà tư tưởng lớn của thế kỷ 17, Thiền Sư đã xây dựng một ngữ pháp để giải và dịch Kinh mới mẻ nhất, mà không theo lối cổ dịch của những thế kỷ 15, 16. Lối dịch này được diễn tả, giải thích Kinh Văn phóng khoáng theo cái nhìn và sự hiểu biết của mình mà không dịch sát chữ, sát nghĩa, cựu dịch. Do cách dịch thuật sáng tạo này mà Thiền Sư đã thật sự đóng góp một gia tài văn học đồ sộ cho nền lịch sử văn học tiếng Việt. Một thí dụ điển hình qua lối dịch giải đó nơi bài Kệ Kinh Kim Cương:

Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điển
Ứng tác như thị quán.

"Hết thảy pháp hữu vi là trên tự thiên địa tạo hóa, dưới đến nhân gian vạn vật, dầu sanh lão bệnh tử, giàu có sang hèn, sĩ nông công thương, mọi loài sắc vật, dầu nhẫn xanh vàng thâm trắng thô tế thanh trọc, dầu có dầu không, dầu hư dầu thiệt, sâu cạn, thấp cao, ách thật vọng tâm khởi diệt. Hết thảy thiện ác muôn pháp cũng là hữu vi vậy..."

Tóm lại Toàn tập Minh Châu Hương Hải là một công trình to lớn trong chốn Thiền gianhân gian, là một nền văn học, tư tưởng vô giá cho thế hệ hậu sinh, để có cái nhìn, suy tư chín chắn trên diễn đàn văn học của Chư vị Lịch Đại Tổ Sư còn lưu truyền đến ngày hôm nay và ngàn sau.

Bằng thực chứng giá trị bề dày lịch sử văn học tư tưởng Phật Giáo và dân tộc Việt Nam xuyên suốt qua tác phẩm Toàn Tập Trần Nhân Tông, một tác phẩm toàn bích, trên hai phạm trù thế gianxuất thế gian của kẻ sỹ.

Nói đến Vua Trần Nhân Tông là nói đến bậc xuất trần vi thượng sỹ. Nói đến bị Bồ Tát hóa thân vào đời, hòa quang đồng trần để độ sinh. Nhà Vua đã đem tài danh thật đức của mình để an bang tế thế, xây dựng nước nhà thanh bình thạnh trị. Dân tộc được ấm no, quốc gia phú cường để từ đó thăng hoa trong cuộc sống tâm linhchuyển mê khai ngộ, đổi phàm thành thánh.

Toàn Tập Trần Nhân Tông đã phô bày một cách thật rõ nét qua Vương vị và Thánh vị của nhà Vua. Là Vương vị, nhà Vua là anh hùng dân tộc đã viết nên dòng sử oai hùng bảo vệ giang sơn gấm vóc, quét sạch ngoại xâm ra khỏi bờ cõi, xây dựng một nền hòa bình chân chính cho dân cho nước. Công cuộc bảo vệ giang sơn này, qua chương III và IV, Vua Trần Nhân Tông và cuộc chiến tranh bảo vệ quốc gia dân tộc năm 1285, 1288 qua các trận Nội Bàng, Vạn Kiếp, Bình Than, Thăng Long, Hàm Tử, Chương Dương, Như Nguyệt... chúng ta ngưỡng mộ tài thao lược, anh hùng túc trí của nhà vua hy sinh vì dân vì nước. Là Thánh vị nhà Vua đã bỏ ngai vàng điện ngọc để đi tu và thành Tổ Đức. Nhà Vua là Sơ Tổ của Thiền Phái Trúc Lâm, một dòng Thiền thực thụ của Phật Giáo Việt Nam. Nhà Vua đã đề ra tư tưởng Cư Trần Lạc Đạo và được coi là cốt lõi, yếu chỉ dòng Thiền:

"Trần tục mà nên, phú ấy càng yêu hết sức,
Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thật khá đồ công."
Hay là:

"Sạch giới lòng, dồi giới tướng,
Nội ngoại nên Bồ Tát trang nghiêm.
Ngay thờ Chúa, thảo thờ Cha,
Đi đổ mới trượng phu trung hiếu."

cuối cùng là Bộ Từ Điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam gồm 2 tập. Đây là một công trình khảo cứu tập thể của quý Thầy học tăng trong các Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, Quảng Hương Già Lam. Nhưng phần chủ biên và hoàn thành Từ Điển vẫn là công trình của Thượng Tọa Tuệ Sỹ và Sử Gia Lê Mạnh Thát đồng tác giả.

Bộ Từ Điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam được có mặt ngày hôm nay, dù rằng chỉ có được 2 tập là A Tập I, từ A đến A Di Đà và A Tập II, từ A Di Đà đến A Di Đà Tự, chưa hoàn tất toàn bộ Từ Điển Phật Học. Nhưng, rõ thật là một sự nỗ lực vượt bậc để cống hiến cho sự tìm hiểu tra cứu về từ ngữ Phật pháp và cũng nói lên tâm nguyện chí thành của Chư vị Tôn Túc có cái nhìn sâu xa, suốt chặng đường lịch sử văn học Phật Giáo hiện đại.

Bằng việc làm của đàn hậu duệ, bằng khả năng sơ lậu của người học trò mang khai, giới thiệu các tác phẩm của Thầy, Sử gia Lê Mạnh Thát, chúng tôicảm tưởng như làm công việc vốc muối bỏ biển, đội đá vá trời. Tuy nhiên khi nghĩ đến công ơn của bậc giáo thọ sư tài bồi huấn dục qua bao năm tháng, nên mạo muội tự nhủ mình trải tấm lòng thành, ngõ hầu có chút phần nào nghĩ về Thầy trong muôn một. Do vậy, nên chỉ có đôi lời bình dị để nói lên công trình khảo cứu ngàn đời của dòng lịch sử văn học nước nhà mà Thầy là một sử gia trác việt anh tài, đã cấu trúc thành những chuỗi chứng tích, tư liệu dòng lịch sử đó. Trước khung trời kiến văn quảng bác, trí tuệ siêu nhiên của Thầy và những kho tư liệu vô giá của lịch sử văn hóa, chỉ biết mình đang là kẻ dò dẫm lần bước. Ngưỡng mong Thầy từ bi lượng thứ.

Kính mong Chư Tôn Đức, Chư vị thức giả cao minh, rộng lòng cảm thông, hỷ xả cho những điều thất thố.


Nam Cali, 11 tháng 6-2005
Nguyên Siêu


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12651)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12266)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11044)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10921)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13373)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11795)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13674)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11915)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11185)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12209)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12414)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20607)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12439)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12467)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11730)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11604)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22443)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13587)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29701)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11553)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16761)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12018)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16856)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12084)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17938)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12654)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13181)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14773)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22638)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10595)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14058)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13879)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13730)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13879)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13951)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14843)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13864)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18429)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22813)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15406)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17333)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22426)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14274)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12595)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11180)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17778)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13220)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13117)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18809)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17191)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13523)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12929)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14708)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14666)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15883)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13528)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27450)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13256)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16737)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21404)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant