Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tánh KhôngAn Lạc

18 Tháng Mười Một 201505:55(Xem: 8113)
Tánh Không Và An Lạc

TÁNH KHÔNGAN LẠC

Nguyễn Thế Đăng


Tánh Không Và An Lạc
 

Pháp thân Phậttánh Không không hình không tướng ở khắp như hư không. Báo thânquang minhHóa thân là thân vật chất; hai thân này được gọi là Sắc thân. Sắc thân được ứng hiện từ Pháp thân và không lìa Pháp thân. Một trong những tính cách của sắc thânan lạc:

Phật thân cùng khắp đầy pháp giới
Khắp ứng chúng sanh đều hiện tiền
Các thứ giáo môn thường dạy trao
Nơi pháp tự tại hay khai ngộ.
Trong các điều vui của thế gian
Thánh tịch diệt lạc là tối thượng
Trụ trong pháp tánh rộng mênh mông
Thiên vương Diệu Nhãn quan sát thấy

          (Phẩm Thế chủ Diệu Nghiêm, thứ 1)

Chư Phật, Đại Bồ-tát ứng hiện thân nơi thế gian, thân ấy lấy pháp thân làm nền tảng nên chứa cái vui cao nhất của thế gian là “thánh tịch diệt lạc”. Hóa thân của một bậc giác ngộbốn đại đã được chuyển hóa thành lạc tịch diệt tối thượng.

Phẩm Như Lai xuất hiện, thứ 37, nói quang minh Như Lai (Báo thân) “khiến sanh hoan hỷ”, “hay làm cho tất cả chúng sanh đều được hoan hỷ”:

“Các Bồ-tát trước đó đã thành tựu những địa khi thấy quang minh này thì lại được thanh tịnh hơn, tất cả thiện căn thảy đều thành thục, hướng đến Nhất thiết trí. Các bậc Nhị thừa thấy quang minh này thì diệt tất cả phiền não. Những chúng sanh khác mù tối, nhờ quang minh này thân họ được lạc phúc, tâm trở nên thanh tịnh, nhu nhuyến, dễ uốn nắn để có thể tu chánh niệmtrí huệ. Những chúng sanh trong những cõi địa ngục, quỷ đói, súc sanh đều được khoái lạc, giải thoát những khổ và khi chết được sanh lên cõi trời hoặc cõi người”.

Bản chất của quang minh hay báo thân là lạc phúc, hoan hỷ, nên khi chúng sanh tiếp xúc được với nó thì đều được lạc phúc, hoan hỷ.

Báo thân có nền tảng là Pháp thân và luôn luôn đi cùng Pháp thân. Như thế Lạc và Không luôn luôn đi cùng nhau, không tách rời. Đây cũng là sự thành tựu tối cao của các Tantra Mật thừa: sự bất nhị của tánh khôngđại lạc (mahasukha).

Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV nói: “Trong những Tantra Yoga tối thượng, như Kalachakra, giai đoạn cuối là samadhi, trong đó lạc bất biến tối thượng sanh khởi” (Tantra in Tibet, Dalai Lama XIV, 1987 – Mật thừa Tây Tạng, chương Kim cương thừa, nxb Thiện Tri Thức, 1999).

Bài kệ của Ban-thiền Lạt-ma thứ VI nói:

Nguyện rằng con thành tựu thông điệp Bất Nhị sâu xa
Của hai giai đoạn thiền định được dạy trong Guhyasamaja,
Yamantaka, Heruka Chakrasamvara và Kalachakra
Như thế trong nội đời này con hoàn thành chứng ngộ
Thân huyễn và tịnh quang trong hợp nhất viên mãn
Hay thân không hợp nhất với lạc phúc bất biến.

          (Sự tu hành Kalachakra, Glenn Mullin, TTT dịch, 2009)

Chúng ta tìm hiểu tiếp về vấn đề tánh khôngan lạc này ở tam muội thứ 8 trong 10 tam muội của phẩm Hiền Thủ, thứ 12, đặc biệt nói về quang minh. Mười tam muội này do Bồ-tát Hiền Thủ nói cho các Bồ-tát cầu chứng giác ngộ, “những công đức đó chẳng lường được, nay tôi tùy sức nói ít phần”.

Tam muội thứ 8 nói về những quang minh mà khi phóng ra đem đến an lạc cho chúng sanh. Có thể đặt tên cho tam muội thứ 8 này là Quang minh tam muội. Quang minh tam muội thứ nhất có tên là An Lạc

Có thắng tam muội tên An Lạc
Hay khắp cứu độ các quần sanh
Phóng đại quang minh chẳng nghĩ bàn
Khiến ai được thấy đều điều phục…

Quang minh Báo thân khi phóng ra thì tất cả những sự tiêu cực xấu xa bị tiêu diệt: “bao nhiêu ám chướng đều tiêu trừ”, “rưới tắt những khát ái thế gian”, “vượt qua được bốn dòng nước dữ”, và hiển bày những công đức khiến chúng sanh thực hành Phật pháp để giải thoát. Thế nên một quang minh có tên là Thiện Hiện, sự xuất hiện của những cái thiện.

Khi những tiêu cực đó được xua tan thì an lạc bèn đến. Có quang minh tên là Hoan Hỷ vì làm cho chúng sanh hoan hỷ, ưa làm những hoạt động đem đến sự vui thích cho thân tâm và rồi thành tựu quang minh cho chính mình:

Lại phóng quang minh tên Hoan Hỷ
Quang này thức tỉnh tất cả chúng
Khiến họ ái mộ giác ngộ, Phật
Phát tâm nguyện chứng vô sư đạo.
Tạo lập tượng Như Lai đại bi
Tướng hảo trang nghiêm ngự tòa sen
Luôn ca ngợi những thắng công đức
Do đây thành được quang minh này.

Quang minh Báo thân thành tựu là do công đức được làm y vào Pháp thân tánh Không, “do bổn hạnh xưa được quang minh”:

Nếu ai tự tu các phước nghiệp
Cúng dường chư Phật vô lượng số
Nơi công đức Phật thường nguyện cầu
Được quang minh này làm giác ngộ.

Quang minh là do công đức, nguyện và hạnh hợp thành, do đó quang minhBáo thân. Báo thân nghĩa là thân lạc phúc, vì Báo thân còn được dịch là “Thọ pháp lạc Phật”.

Quang minh ấy là an lạc và làm cho người khác chuyển dục lạc thành an lạc. Việc phóng quang hẳn là do năng lực của từ bi nơi một Bồ-tát:

Lại phóng quang minh tên Diệt Ái
Quang này thức tỉnh tất cả chúng
Khiến họ xa lìa cảnh năm dục
Trụ nơi diệu vị của giải thoát.
Nếu hay lìa bỏ cảnh năm dục
Tâm trụ diệu vị của giải thoát
Thì hay dùng cam lộ Phật pháp
Rưới tắt những khát ái thế gian.
Bố thí ao giếng và dòng suối
Chuyên cần đạo giác ngộ vô thượng
Trách  năm dục, ca ngợi thiền định
Do đây được thành quang minh này.

Cũng nhờ quang minh của Báo thân mà người ta có thể đi sâu vào Pháp thân tánh Không và giúp người khác thấu đạt tánh Không, bởi vì Báo thân quang minh chẳng hề lìa Pháp thân tánh Không.

Lại phóng quang minh tên Huệ Đăng

Quang này thức tỉnh tất cả chúng

Khiến biết chúng sanh tánh không tịch

Tất cả các pháp vô sở hữu.

Diễn nói các pháp Không, vô chủ

Như huyễn, ngọn lửa, trăng dưới nước

Cũng như giấc mộng, bóng trong gương

Do đây thành được quang minh này.

quang minh tên là An Ổn, từ an ổn hết khổ đau mà được an lạc.

Lại phóng quang minh tên An Ổn

Quang này chiếu đến người tật bệnh

Khiến trừ tất cả sự khổ đau

Đều được an lạc trong chánh định…

Lại có quang minh khiến người vui mừng thích thú với Pháp:

Lại phóng quang minh tên Lạc Pháp

Quang này giác ngộ tất cả chúng

Khiến nơi chánh pháp luôn mến thích

Lóng nghe diễn thuyết và biên chép

Lúc pháp sắp diệt hay diễn thuyết

Khiến người cầu pháp ý thỏa mãn

Mến thích chánh pháp siêng tu tập

Do đây được thành quang minh này.

Quang minh Báo thân làm những Phật sự như trang nghiêm, cúng dường, xây tháp, tạo tượng bằng đủ loại hương hoa đồ vật thơm sạch quý báu khiến thế giới này biến thành linh thiêng, thanh tịnh, hân hoan, an vui, thành một cõi Tịnh độ. Quang minh Báo thân biến thế giới thành cõi Phật:

Lại phóng quang minh tên Hương Nghiêm

Quang này giác ngộ tất cả chúng

Khi người nghe pháp lòng hân hoan

Quyết định sẽ thành công đức Phật.

Hương tốt quý giá hoa trên đất

Cúng dường tất cả chư Thế Tôn

Cũng dùng xây tháp và tượng Phật

Do đây thành tựu quang minh này.

Lại phóng quang tên Tạp Trang Nghiêm

Bửu tràng, phan lọng vô số lượng

Thắp hương, rải hoa, tấu âm nhạc

Thành ấp trong ngoài đều khắp cả.

Đem những kỹ nhạc vi diệu ấy

Cùng những hương hoa phan lọng đẹp

Các thứ trang nghiêm cúng dường Phật

Do đây thành được quang minh này.

Lại phóng quang minh tên Nghiêm Khiết

Khiến mặt đất đai đều bằng phẳng

Trang nghiêm tháp Phật và chung quanh

Do đây thành được quang minh này.

Lại phóng quang minh tên Đại Vấn

Hay khởi mây thơm hay nước thơm

Nước thơm rưới tháp và chung quanh

Do đây thành được quang minh này.

Quang minh Báo thân này một khi thấm vào tâm , từ từ thấm ra đến khẩu, và cuối cùng ra đến thân, nghĩa là ra đến các giác quanchuyển hóa các giác quan:

Lại phóng quang minh tên Diệu Âm

Quang này khai ngộ các Bồ-tát

Tất cả các tiếng trong ba cõi

Đều khiến người nghe là tiếng Phật.

Lớn tiếng ca ngợi tán thán Phật

Bố thí chuông linh các âm nhạc

Khiến khắp thế gian nghe âm Phật

Do đây được thành quang minh này.

Do quang minh này, mắt tai mũi lưỡi thân ý, các giác quan đều trở nên thanh tịnh, kinh nghiệm được cõi giới của Phật, hay là pháp giới:

Lại phóng quang tên Mắt Thanh Tịnh

Hay khiến người mù được nhìn thấy

Đem đèn cúng Phật và tháp Phật

Do đây được thành quang minh này…

Lại phóng quang tên Tai Thanh Tịnh

Hay khiến người điếc được nghe tiếng

Trổi nhạc cúng Phật và tháp Phật

Do đây được thành quang minh này…

Do quang minh này sắc thanh hương vị xúc pháp đều thành thanh tịnh, nghĩa là trở lại bản tánh thanh tịnh của chúng, do đó cảnh vật đối tượng đều thành cõi tịnh độ, cõi Phật:

Lại phóng quang tên Sắc Thanh Tịnh

Khiến thấy Phật sắc chẳng nghĩ bàn

Đem những Phật sắc trang nghiêm tháp

Do đây được thành quang minh này.

Lại phóng quang tên Thanh Thanh Tịnh

Khiến biết tánh thanh vốn không tịch

Quán thanh duyên khởi như tiếng vang

Do đây được thành quang minh ấy.

Lại phóng quang tên Hương Thanh Tịnh

Khiến mọi vật hôi đều thơm sạch

Nước thơm rửa tháp, cây bồ-đề

Do đây được thành quang minh ấy.

Lại phóng quang tên Vị Thanh Tịnh

Hay trừ tất cả độc trong vị

Hằng cúng dường Phật, Tăng, Mẹ Cha

Do đây được thành quiang minh ấy.

Lại phóng quang tên Xúc Thanh Tịnh

Hay khiến thô nhám thành dịu êm

Dù thương đao kiếm trên rơi xuống

Đều khiến biến thành tràng hoa đẹp.

Bởi xưa từng ở giữa đường sá

Thoa hương, rải hoa, trải y phục

Rước đưa chư Phật đi trên đó

Vì thế nay được quang minh này…

Kinh còn nhiều đoạn nữa, nhưng cũng đủ cho chúng ta thấy quang minh tức Báo thân an lạc không lìa Pháp thân tánh Không, chuyển hóa thân tâmthế giới này thành môi trường của an lạc hay cõi Phật thanh tịnh. Đó là sự chuyển hóa sanh tử thành Niết-bàn, là một mục đích tu chứng của Đại thừa.

Khi một Bồ-tát chuyển hóa thế giới vật chất sanh tử khổ đau thành thanh tịnh, thiêng liêng, an lạc, thì thân tâmthế giới trở thành Hóa thân của vị ấy. Sự chuyển hóa này là do Báo thân quang minh an lạc không lìa khỏi Pháp thân tánh Khôngthành tựu.

Kinh dạy mỗi chúng ta vẫn có ba thân Pháp, Báo, Hóa, dù ở dạng tiềm năng. Chúng ta vẫn đang có Báo thân dù chưa phóng quang minh được vì chưa đủ trí huệcông đức. Phật pháp là để cho chúng ta khai mở quang minh Báo thân ấy, sử dụng nó làm lợi lạc cho mình cho người để biến cuộc đời sanh tử của chúng ta thành môi trường của an lạctự do.

Với một vị Phật thì ở đâu cũng là Tịnh độ, ở đâu cũng là cảnh giới của tánh Khôngan lạc:

“Đại Bồ-tát dùng trí huệ vô ngại biết tất cả cảnh giới thế giancảnh giới Như Lai. Biết tất cả cảnh giới ba đời, tất cả cõi cảnh giới, tất cả pháp cảnh giới, tất cả chúng sanh cảnh giới, chân như vô sai biệt cảnh giới, pháp giớichướng ngại cảnh giới, thật tế vô biên tế cảnh giới, hư không vô phần lượng cảnh giới, cảnh giới không cảnh giới, đều là Như Lai cảnh giới”. (phẩm Như Lai xuất hiện, thứ 37).

 Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 229

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10108)
Phật giáo vào Anh quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ 19, qua các công trình dịch thuật kinh điển ở các nước Phật giáo Đông phương.
(Xem: 18506)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 14501)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 8804)
Nói đến “Tính Không” trong Đạo Phật là nói đến một vấn đề mà nhiều người còn thắc mắc, nhất là những người ngoại đạo...
(Xem: 8906)
Phẩm Quán Tứ đế của Trung luận, từ chỗ duyên khởi tức là không, cũng là giả danh về sau, tiếp theo nói: cũng là trung đạo.
(Xem: 8193)
Triết học Phật giáo Đại thừa có hai phương diện, đó là Triết học Phật giáo Đại thừa hay Tánh không luận và Du-già hành tông hay trường phái Duy thức...
(Xem: 8991)
Không là pháp quán chung của Phật giáo, nhưng pháp quán của các nhà Trung Quán không giống với pháp quán của các tông phái khác.
(Xem: 14147)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 8436)
Niệm tức là nghĩ nhớ, ức niệm, suy tưởng, chú tâm quan sát hay hướng tâm đến một đối tượng nào đó thuộc tâm thức và giữ cho đối tượng đó luôn luôn sinh động ở trong tâm...
(Xem: 15257)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13127)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 7801)
"Các thầy Tỷ kheo sau khi ta diệt độ, các thầy phải trân trọng, tôn kính tịnh giới, như người mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc..."
(Xem: 16630)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15492)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 8975)
Chấp nhận một hình thức Phật giáo rồi dấn thân bằng thực nghiệm, hành giả không cần phải dành quá nhiều công sức cho những vấn đề lý thuyết và những mục tiêu lý tưởng của các truyền thống khác nhau.
(Xem: 7925)
Pháp môn Tịnh độ được sáng lậptu hành dựa trên tư tưởng “Yếm ly Ta bà, hân cầu Cực Lạc”. Song vì sao phải yếm ly Ta bà và lại hân cầu Cực Lạc?
(Xem: 7083)
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận giải Nobel Hòa Bình 21 năm trước, ngài nói, "Tôi chỉ là một thầy tu giản dị".
(Xem: 11248)
Đạo Phậtđạo nhân quả (nhân nào quả nấy) trên cơ sở lấy “Tâm” làm gốc và được ứng dụng vào trong cuộc sống.
(Xem: 14238)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 10447)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20444)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 8773)
"Các người phải siêng năng tu tập các điều thiện, nhờ tu tập điều thiện mà được mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm tươi, sống yên ổn, vui vẻ, của cải dồi dào, uy tín đầy đủ"
(Xem: 9264)
Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành...
(Xem: 24082)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12630)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 7797)
Giải quyết vấn đề thoát khổ, Đạo Phật lấy tâm thức của con người làm trọng tâm, bất cứ hệ tư tưởng Phật giáo nào nếu tách rời tâm thức của con người thì Phật giáo không còn đất đứng.
(Xem: 16218)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle...
(Xem: 15571)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 8720)
Indriya có nghĩa là căn, gốc, khả năng, làm chủ, cốt yếu... Bala là lực, là sức mạnh. Vậy ngũ căn là 5 trạng thái tâm căn bản, 5 yếu tố tâm lý căn bản có khả năng kiểm soát tâm, làm chủ tâm.
(Xem: 7630)
Nghiệp là một luật rất công bằng cho tất cả mọi loài, mình tạo thì mình hưởng. Làm phước được phước, làm tội chịu tội.
(Xem: 14596)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 9284)
"Vô Ngã" là vấn đề tương đối hơi khó và khiến cho nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật phải tốn nhiều công sức để truy cứu, tìm hiểu.
(Xem: 15478)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 15128)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16598)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 13446)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 15298)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 7822)
Tất cả đều được tiếp nối dưới một hình thức này hay một hình thức khác. Đám mây luân hồi ra thành cơn mưa và cơn mưa luân hồi ra thành ra nước trà.
(Xem: 7479)
Đức Phật trong thực tế đã không đưa ra các nghi thức và các nghi lễchúng ta đang thực hiện ngày hôm nay, Ngài cũng không vì vấn đề nghi thứcnghi lễ mà khuyến khích dân chúng...
(Xem: 7331)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu.
(Xem: 8997)
"Tôi nhất định phục hưng Chánh Pháp. Tôi chỉ cho phép Phật GiáoChánh Pháp chứ không có Mạt Pháp! Bất cứ nơi nào tôi đến, nơi đó sẽ có phước đức, trí huệ và được giảm bớt tai ương."
(Xem: 14000)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 8012)
Mục đích của bài viết này là để hổ trợ trong việc gia tăng sự hiểu biết tốt hơn về tôn giáo, sự khoan dungý nghĩa sâu sắc của các tôn giáo khác từ quan điểm của Phật giáo...
(Xem: 7837)
Dường như trong Kinh Tạng ít nhất có hai lần nhắc đến trường hợp Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn...
(Xem: 15780)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10253)
Chúng ta luôn bị bất an, lòng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sinh mạng, quyền lợi, địa vị, vợ con, tiếng tăm, của cải… của mình bị thương tổn hay bị đe dọa.
(Xem: 7676)
Đạo Phật chủ trương trong hiện tại phải sống giải thoát cho chính mình và giúp đỡ mọi người vượt qua nỗi khổ niềm đau để đạt được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
(Xem: 7487)
Trung-quán-luận hay Trung-quán Ngâm khúc (Madhyamaka-káriká) là một tập thơ của Nàgàrjuna để giảng Giáo lý của đức Phật.
(Xem: 12759)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 7842)
Các thí dụ trình bày trong bản kinh này đều gần gũi với sự vật, hiện tượng xảy ra, liên hệ trực tiếp đến đời sống con nguời.
(Xem: 8083)
Bài chuyển ngữ dưới đây sẽ tiếp tục đưa chúng ta bước vào một thế giới khác của vấn đề này liên quan đến các hiểu biết khoa học tân tiến ngày nay.
(Xem: 13966)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 7270)
Tổ Chức Y Tế Thế Giới (OMS / WHO) định nghĩa sức khoẻ là một "thể dạng an vui toàn diện, từ thể xác đến tâm thần và cả cuộc sống trong xã hội
(Xem: 9176)
Trong Thiện kiến tì-bà-sa cũng có thuyết này, nhưng vì độ người nữ xuất gia nên tổn chính pháp năm trăm năm.
(Xem: 9638)
“Sắc tức là không, không tức là sắc” được trích ra từ kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đã được tinh giản, công thức hóa và xem như một thành ngữ.
(Xem: 13069)
Hiện nay Phật giáo có tiếng nói vô cùng quan trọng đối với Liên hiệp quốc, vì đã đánh thức được lương tri, lương tâm con người.
(Xem: 7569)
Nếu không có ngã, sự liên quan giữa một hành nghiệp và kết quả của nó là điều không thể có, vì nếu tác giả của một hành nghiệp chết, ai sẽ có kết quả?
(Xem: 10117)
Chúng ta lễ lạy để tịnh hóa mọi tình huống trong quá khứ khi ta không kính trọng người khác... Nguyên tác: Lạt Ma Gendyn Rinpoche; Liên Hoa dịch Việt
(Xem: 7180)
Sau khi Đức Phật diệt độ, Tôn giả Maha Kassapa đã triệu tập 500 vị A-la-hán vân tập tại thành Rājagaha để kiết tập kinh điển... Chúc Phú
(Xem: 30867)
Tăng đoàn bắt đầu hoạt động rộng rãi và có ảnh hưởng kể từ khi Phật niết bàn... Thích Nữ Trí Nguyệt dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant