Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý Nghĩa Niết Bàn

20 Tháng Ba 201609:41(Xem: 8685)
Ý Nghĩa Niết Bàn

Ý-NGHĨA NIẾT-BÀN 

Chánh Trí Mai Thọ Truyền

(Phụ trương Từ Quang tạp chí, do Hội Phật học Nam Việt ấn tống)

Y Nghia Niet BAn

 

Theo  Kinh-điển Hán-văn, hôm nay rằm tháng 2 âm-lịch là ngày Phật nhập Niết-bàn.

Cùng một việc dứt thở, bỏ xác, tại sao ở người thế-gian, gọi là chết, còn ở Phật lại gọi là “nhập Niết-bàn”? Vậy sự sai khác giữa đôi đàng như thế nào và Niết bàn có nghĩa là gì? Đó là hai điểm mà tôi xin đề-nghị cùng chư quý đạo-hữu tìm hiểu, xuyên qua các sách vở đã được viết ra rất nhiều về vấn-đề này.

Trước tiên, chúng ta hãy nghe Kinh Bại-bát Niết-bàn nói về giờ phút trước khi và trong khi Phật nhập Niết-bàn.

Như Lai liền nói bài kệ:

Các hành vô-thường
Là pháp sinh-diệt.
Diệt sinh-diệt rồi,
Tịch-diệt là vui”.

Đại ý bài kệ nói rằng sự-vật không thường còn, vì đó là những thứ hễ có sinh ra là phải có diệt đi, nghĩa là có sinh là có tử, có đầu là có đuôi, có khởi đoan là có chấm dứt. Nếu diệt được cái “sinh diệt” ấy tức là nếu chấm dứt được sự “sinh tử”, thì được cái vui gọi là “tịch-diệt”. Sinh-tử đây là sinh-tử của thân, là vật sinh-diệt. Vì vậy Như-Lai nói tiếp:

“Các vị nên biết, hết thảy mọi hành-tướng đều là vô-thường. Thân tôi nay, tuy là thể kim-cương, vẫn không khỏi lẽ vô-thường biến thiên. Trong nẻo sinh-tử rất đáng sợ-hãi, các vị nên siêng làm hạnh tinh-tấn, cầu mau ra khỏi hố lữa sinh-tử này, đó là lời dạy cuối cùng của tôi. Thời nhập Niết-bàn của tôi đã đến”.

PHẨM PHÓ-CHÚC

“Ngay khi ấy Như-Lai vào Sơ-thiền; ra Sơ-thiền, vào Nhị-thiền; ra Nhị-thiền, vào Tam-thiền; ra Tam-thiền vào Tứ-thiền; ra Tứ-thiền vào Không-xứ; ra Không-xứ, vào Thức-xứ; ra Thức-xứ, vào Vô-sở-hữu-xứ; ra Vô-sở-hữu-xứ, vào Phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ; ra Phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ vào Diệt-tận-định.

Lúc đó, A-Nan thấy Như-Lai im bặt không nói, thân thể, chi-tiết không dao-động, liền sa lệ nói rằng: “Thế-Tôn nay đã nhập Niết-bàn rồi!”.

“Bấy giờ A-nâu-lâu-đà (Anurudha) bảo A-Nan: “Ngay bây-giờ Như-Lai chưa nhập Niết-bàn đâu! Sở-dĩ Ngài im-bặt, thân không dao-động, chính vì Ngài nhập Diệt-tận-định.

Đức Thế-Tôn ra Diệt-tận-định, lại trở vào Phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ, và lần-lượt cho đến vào Sơ-thiền; ra Nhị-thiền, vào Tam-thiền; ra Tam-thiền, vào Tứ-thiền. Và, ngay ở nơi ấy, Ngài nhập Niết-bàn”

PHẨM NHẬP NIẾT-BÀN

Hai đoạn kinh trên đã chỉ cho chúng ta thấy Phật không có “chết” cái chết của phàm-phu, mà Ngài đã “nhập định”. Không phải một nhập-định hữu hạn mà vô cùng  vĩnh-viễn, vì Ngài đã tận “diệt phiền-não, sinh-tử, đã lìa mọi tướng, vào chỗ vắng-lặng vô cùng vô tận”. Đây là nghĩa đại-khái của danh-từ “nhập Niết-bàn”.

Bây giờ chúng ta hãy đi sâu vào vấn-đề để hiểu rõ thêm hơn.

Điểm cần ghi nhớ là đừng nghe nói Phật “nhập Niết-bàn”, rồi tưởng Phật đã về một cõi nào đó, hưởng phước đời đời, như Thiên-đường của nhiều Tôn-giáo khác. Cũng đừng hiểu rằng Phật đã tiêu-tan trong Hư-vô (Néant), khi đọc kinh-điển thấy nói Phật “tịch-diệt” hay “viên-tịch”. Vậy “nhập Niết-bàn” là đi vào đâu?

Niết-bàn là phiên-âm chữ Nirvâna của Ấn-Độ, Tàu dịch nghĩa là Diệt, Người Pháp dịch là Extinction với cái nghĩa: Thổi trên ngọn đèn để tắt. Diệt ngọn lửa mà một hơi thở làm mất tích, đó gọi là Niết-bàn.

Nhưng ngọn lửa mà một hơi thở, hơi thở của chúng ta, làm tắt, ngọn lửa đó là gì?

Một ẩn-sĩ Bà-la-môn hỏi Ngài Xá-lợi-Phất (Sariputra), một đại-đệ-tử của Phật:

– Niết-bàn, Niết-bàn, này ông bạn Xá-lợi-Phất, đó là gì?

– Sự tiêu-diệt lòng tham-muốn, sự tiêu-diệt lòng nóng giận hận thù, sự tiêu-diệt lòng si-mê sai-lạc, đó thưa ông bạn, là cái mà người ta gọi là Niết-bàn.      ( SAMYUTTA NIKAYA )

Vậy  Niết-bàn chỉ lả một danh-từ chỉ cái kết quả cứu cánh của sự tu-hành theo Phật-giáo mà mục-đích cứu-cánh là diệt tam-độc: tham, sân, si.

Để rõ hơn, chúng ta hãy tiếp nghe lời Phật dạy:

“Người tu nào đã từ bỏ được thú vui và tham-muốn, đã đầy đủ trí-huệ, là ngay ở cõi đời đây, đã đạt đến sự giải-thoát sinh-tử, sự tịch-tĩnh, đã đạt đến Niết-bàn, nơi an dưỡng thường-tồn, vĩnh-cửu.

Kẻ nào đã ra khỏi những con đường mòn gạt-gẫm của Luân-hồi, kẻ nào đã lội qua bên kia sông và đã tới bờ, giữ tâm chánh-định, không quá thất, không nghi hoặc, kẻ nào đã giải-thoát mọi sự-vật thế-gian và đạt đến Niết-bàn, kẻ ấy là một tu-sĩ chân-thực”. SUTTASANGAHA

Niết-bàn là nơi an-dưỡng thường-tồn, vĩnh-cửu! Vậy sao bảo Niết-bàn không phải là một cõi? Xin thưa, những chữ “nơi an-dưỡng” dùng ở đây là một lối nói “tạm” để ám-chỉ cái “thường”, đối lại với cái “vô-thường” là cảnh thế-gian. Do đây trong kinh Dvyatânupassanâ, Phật dạy:

“Cái không tiêu không diệt là Niết-bàn, hạng người cao-cả quan-niệm nó như thật có; nhờ thấu-triệt được sự thật này, họ được giải-thoát khỏi mọi thèm khát tham muốn và được hoàn-toàn an-lạc”.

Vậy Niết-bàn chỉ cái “Thường”, mà còn chỉ cái “An-lạc” của những tâm-hồn giải-thoát. Có giải-thoát, có diệt dục, mới có Niết-bàn:

“Trong kẻ từ-bi bố-thí, cây đạo-đức sẽ mọc lên.

Trong kẻ tự chế-ngự được, không một cơn giận hờn nào có thể nổi lên.

Người chân-chính gạt bỏ mọi điều ác.

Bởi sự tận diệt tham, sân, si, ngươi sẽ đạt đến Niết-bàn”.

MAHÂ-PARINIBBANA SUTTA

Thế thì Niết-bàn phải là một tâm-trạng không? Cũng không. Vấn-đề thật là rắc-rối và khó hiểu. Chính Phật cũng đã nhìn nhận như thế trong Kinh Udâna như sau:

“Này các đệ-tử, có một quốc-độ mà ở đấy không có đất, không có nước, không có nóng, không có gió(1); không có không-gian vô tận,  không có thức vô biên, cũng không phải hoàn-toàn không có gì cả, cũng không có sự cảm-thọ hay không cảm-thọ, cũng không có thế-giới này, thế-giới kia, mà vừa là mặt trời, vừa là mặt trăng.

Cái ấy, này các đệ-tử, ta không gọi là khứ, là lai, là trụ, là sinh, là tử, nó không nhân, không thành, không diệt. Đó là chỗ chấm dứt của sự khổ.

Khó mà thực-nghiệm được cái “thể”; chân-lý không phải dễ nhiếp-thọ, nắm lấy; kẻ biết thật biết mới làm chủ được lòng ham-muốn và kẻ nào thấy thật thấy mới thấy vạn-vật không có một giá-trị chân-thật nào cả”.

Từ trước đến đây, chúng ta thấy Niết-bàn không phải một cõi, một cảnh, một tâm-trạng, cũng không phải là cái không ngơ (hư-vô). Vậy Niết-bàn có hay không có? .

Trong Kinh Na-Tiên Tỳ-kheo, vua Milinda đã đặt ra câu hỏi ấy. Vả đây là câu trả lời của Ngài Na-Tiên:

“– Tâu Hoàng-thượng, có Niết-bàn, và cái có ấy, có thể lấy trí mà nhận. Còn hễ là đệ-tử Phật mà giữ được tâm thanh tịnh và chánh-trực, thoát khỏi các nghiệp-chướng, thoát khỏi được các tham muốn thấp hèn, thì thấy được Niết-bàn.

– Xin thí-dụ, nhà Vua nói.

– Hoàng-thượng biết có một cái gọi là gió. Vậy xin Hoàng-thượng chỉ cho tôi coi gió màu sắc gì, hình dáng ra sao, nó dày hay mỏng, dài hay vắn?

– Không thể chỉ được như thế, vì làm sao nắm bắt nó được, nhưng dầu vậy, gió là cái gì có.

Cũng thế, tâu Hoàng-thượng, Niết-bàn là cái gì có mà không thể chỉ cho thiên-hạ thấy hình sắc của nó.

Cái lý Niết-bàn, đầy an-lạc, rất nhiệm-mầu, có. Và người nào ở ăn chân-chánh, thấu hiểu tánh của các tướng, tuân hành giáo-pháp của chư Phật, người ấy ắt thực chứng Niết-bàn, cũng như một đứa trẻ học nghề, nhờ thầy chỉ dẫn, mà rồi tự tạo, tự biến thành một thợ giỏi trong nghề.

– Làm sao biết được Niết-bàn, nhà Vua hỏi.

– Nhờ sự thoát khỏi phiền-não, nghiệp-chướng, nhờ sự an-ổn, an-lạc thanh-tịnh”.

Rồi Ngài Na-Tiên cho thêm vài thí-dụ. .

– Người té vào đống lửa ngùn-ngụt, cố gắng vượt ra khỏi và lên được chỗ mát-mẻ. Người ấy cảm thấy sung-sướng vô cùng. Cũng thế, người thoát khỏi lửa của tham, sân, si sẽ hưởng cái sung-sướng Niết-bàn.

– Người té vào huyệt tử-thi hôi-thối, nếu cố-gắng ra khỏi được và lên chỗ không có tử-thi, sẽ cảm thấy sung sướng vô ngằn. Cũng thế, ai ra khỏi hầm tử-thi của những tâm-niệm bất thiện, người ấy sẽ hưởng cái sung-sướng Niết-bàn.

– Người té vào hầm phẩn dơ mà cố-gắng ra khỏi và lên chỗ sạch, sẽ cảm thấy sung-sướng. Ai thoát khỏi cái lo sợ của sanh, già, bệnh, chết, người ấy sẽ hưởng cái sung-sướng Niết-bàn.

Vậy tìm Niết-bàn ở đâu?

“Ở trong đạo-đức. Nếu sống luôn trong đạo-đức, trong định-tâm, thì dầu ở đông ở tây, ở nam ở bắc, ở dưới Long-cung hay ở trên Thiên-cung, bất luận chỗ nào, người sống trong chánh-chân như thế tìm được Niết-bàn”.

Cứ như trên thì Niết-bàn là cái gì mà ngay đây mỗi chúng tathể đạt được, miễn thực hiện những điều kiện Phật dạy? Vâng, quả đúng như thế. Về điểm này, Bà Alexandra Daviđ, trong sách “Le Modernisme Boudhiste et le Bouddhisme du Bouddha” có viết :

“Niết-bàn là mục-đích, là hải-cảng trú-ẩn, là sự an nghỉ miên viễn. Hải-cảng ấy, bậc A-la-hán đã đạt đến rồi; ngay lúc còn sống, La-hán đã vượt khỏi ngưỡngcửa cái thế giới bên kia, rất cách biệt với những tri kiến và quan-niệm của chúng ta, và tuy chúng ta thấy Ngài cũng vẫn còn đi, đứng, nằm, ngồi y như chúng ta và giữa đám chúng ta , La-hán không còn là người của thế-giới chúng ta, là thế-giới của vọng-tưởng và vô-thường. Ngài sống trong Bất-biến, trong Bất-sinh, trong Chân-thường. Ngài là cái Bất-biến, Bất-sinh, Chân-thường”.

Tu-hành mà đạt đến kết-quả này gọi là “đắc Niết-bàn tại thế” hay “đắc hữu dư Niết-bàn” hay nữa “đắc hữu dư-y Niết-bàn”.

Kinh Bảo-Quật nói :

“Kim-cang tâm đoạn biến-dịch nhân tận, nhi biến-dịch quả du-tồn, hữu dư lụy, cố viết hữu dư”.

Cái nhân biến-dịch đã bị tâm Kim-cang (trí huệ) chặt đứt, nhưng cái quả biến dịch vẫn còn, nên còn phải chịu một phần nợ-nần, bó buộc nào, vì vậy nên gọi là còn dư, chưa đứt. Nói một cách khác, hữu-dư Niết-bàn là kết-quả giải-thoát nội tâm hoàn-toàn, nhưng về mặt thân xác thì sự giải-thoát chưa được hoàn-toàn hẳn, vì còn thân là còn nợ-nần với cái sống ăn, sống mặc, với già, với bệnh, với chết.

Cao hơn “Hữu-dư Niết bàn” có “Vô-dư Niết-bàn” hay “Vô-dư-y Niết-bàn”, là “Vô sanh-tử chi nhân, diệc vô quả dã”. Đó là kết-quả mà Phật đã đạt đến vào một đêm rằm tháng hai, cách nay trên 2500 năm. Cái nhân sanh-tử trong tâm đã chết mất từ lâu, rồi nay cái quả sanh-tử của nhân tiền kiếp (thân) cũng bỏ lại và sẽ tan-rã, thì còn nợ-nần chỗ nào mà khòng bảo là “Vô-dư”. Tóm lại, “Vô-dư Niết-bàn” là Niết-bàn đạt đến khi bỏ xác, là Giải-thoát hoàn-toàn.

Nhưng dầu hoàn-toàn (Vô-dư) hay chưa hoàn-toàn (Hữu-dư), Niết-bàn chỉ có một thể, cũng như đường chỉ có một vị là ngọt, dầu đó là đường tán hay đường phèn. Để chỉ cái vị duy nhất ấy kinh-điển bảo Niết-bàn có bốn đức (hay bốn đặc-điểm: propriétés essentielles) là: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Nói cho đúng, chính 4 cái đó là Niết-bàn và ai thực chứng được, ai thưởng thức được thì gọi là “đắc Niết-bàn”.

Bốn đức này , chúng ta đã nghe thấy trong những đoạn kinh đã dẫn ở phía trước.

Sống trong, vì và bởi cảnh thế-gian là sống trong biến-dịch, vô-thường, cảnh-giới của vật-chất và tình-cảm thấp-thỏi. Bỏ được lối sống này mà sống được đời sống nội tâm không biến-dịch, là sống trong cái ngược với vô-thường, tức là sống trong cái Thường (Eternel). Sống trong Thường là bất biến, nhưng không phải không tùy duyên. Tùy duyên mà vẫn bất biến. Thí-dụ: đến giờ phải ăn là ăn (tùy duyên), nhưng không để cái ăn làm xao-động lòng mình (bất biến). Trước cảnh đau-khổ của người khác, lòng không bị kích-thích như thế tình (bất biến), nhưng hết sức giúp-đỡ (tùy duyên). Được như thế gọi là Thường.

Tâm không bồn-chồn, lo muốn nóng-nảy, gọi là an. Có an là có vui (Lạc), cái vui khác thường, vì không cần có mồi mới sanh vui. Người muốn tiền mà không được tiền, không vui, như cá muốn ăn mà không gặp mồi, không sướng. Vậy cái vui sướng của thế-nhân là cái vui sướng cảm thấy khi lòng ham muốn , thèm khát, được thỏa-mãn. Cái Lạc của người giải-thoát là cái vui hồn-nhiên, phát xuất từ chỗ không tham, không cầu gì cả. Đó là cái mội nước tự nó phun lên, mà không cần có máy bơm. Vậy là một cái vui bất chấp ngoại cảnh, hoàn toàn giải-thoát mọi kích-thích, cái vui “bí-mật” mỉm cười của Phật. Được như thế gọi là Lạc.

Thế-nhân ai là người không sống cho ta và vì ta, cho và vì cái ta nhỏ mọn (tiểu-ngã)? Đó là lối sống ích-kỷ. Bỏ lối sóng đó mà sống vì người, vì tất cả, là sống cho cái Ta to (Đại-ngã). Gọi Đại-ngã vì là toàn thể những cái “ta” nhỏ góp lại. Vậy sống vị-tha là sống cho Đại-ngã, hay Ngã, sống như cái sống của nước đại-dương. không sống chật hẹp của nước biển đựng trong chai. Được như thế gọi là Ngã.

Sống theo thế-tình, thế-tục, là sống trong ô-nhiễm. Càng đi xa trên con đường ấy là càng lún chân trên bãi lầy của phiền-não, nghiệp-chướng do tham, sân, si, tài, sắc, danh, lợi, thực, thùy tạo ra. Bỏ lối sống ấy mà sống một lối sống hoàn-toàn trong sạch, lòng không dính một bụi nhơ thế-sự, được như vậy gọi là Tịnh.

Tất cả những cái Lạc, Ngã, Tịnh vừa nói đều do chỗ “tùy duyên bất biến, bất biến mà tùy duyên” mà có.

Ai thực-hiện được tất cả bốn đức ấy thì được gọi là “đắc hay nhập Niết-Bàn”.

Để kết-luận, xin lập lại rằng Niết-bàn chỉ là một danh-từ dùng để chỉ một cái gì mà ngũ quan không nhận được, ý-thức không tưởng-tượng được nhưng có và có một cách chân-thật đối với ai đã thực-chứng, thực-nghiệm được nó. Nhưng xin đừng hiểu là muốn có Niết-bàn phải đi tìm nó. Càng tìm nó, nó lại càng xa, vì có tìm là tâm còn tham mnốn, mà còn tham muốntrái với Tịnh, với Lạc, với Ngã. Cũng đừng tưởng tới nó, vì có tưởng là tại có muốn, mà như thế thì cũng sai rồi.

Cứ ăn ở, cứ sống như Phật dạy, trong Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, rồi Niết-bàn tự-nhiên sẽ đến và chừng ấy chúng ta sẽ biết Niết-bàn là gì. Đừng tưởng đọc sách rồi biết Ba-lê. Phải đến Ba-lê mới biết Ba-lê là gì. Cũng đừng nghe người nói nước mát rồi tưỏng là đã biết cái mát của nưởc. Muốn biết rõ, hãy uống nước. Ngoài ra là ức tưởng, là lấy bóng làm hình.

Cũng đừng tưởng Niết-bàn rất xa chúng ta. Không. Niết-bàn rất gần chúng ta, chúng ta cọ vai sát cánh với nó hàng phút. Nhưng chúng ta chưa bắt tay với nó được, chỉ vì chúng ta chưa bước qua khỏi làn ranh phân cách cái giả với cái chân, vì chúng ta chưa thoát khỏi chứng mù mắt đang căng một tấm màng đen dày chặt giữa cái sống rộng bao-la và cái thấy bó rọ trong ranh giới của cái hình dáng và tên-tuổi (danh sắc) mà mỗi giờ phút làm biến đổichúng ta lầm tưởng là “Ta”./.

Chú thích: (1) Tứ đại: đất, nước, gió, lửa, bốn yếu-tố vật-chất.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4026)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 5207)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2674)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6153)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3068)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3116)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3325)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3250)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3309)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4572)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2741)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5232)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3887)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3853)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3216)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4156)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5070)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3533)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6766)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3978)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3231)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3110)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2973)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5883)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4647)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3508)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2906)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3320)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4437)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5738)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6650)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3738)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4544)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4622)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3985)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3414)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4647)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6074)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5854)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3648)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4697)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4467)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4545)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4280)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4610)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8232)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3935)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5734)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5221)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6867)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6191)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 6006)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5819)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6313)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6804)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4985)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5582)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6404)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3798)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5438)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant