Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chân Kinh & Toán Học

20 Tháng Ba 201620:54(Xem: 10970)
Chân Kinh & Toán Học

Chân Kinh & Toán Học

 

Lê Huy Trứ, MSEE

 

 1.    Giới Thiệu

 

Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa (sa. saddharmapuṇḍarīka-sūtra), hay Pháp Hoa, Phật ám chỉ ba cỗ xe (Tam Thừa) cũng chỉ là thành phần của một cỗ xe, là Nhất Thừa (sa. ekayāna) và kinh chỉ dạy tuỳ theo khả năng tâm trí, tiếp thu bất đồng của mỗi Phật Tử.

 

Tôi cũng nghe như vầyDiệu Pháp Liên Hoa Kinh là Vua của tất cả các kinh điển Phật Giáo

 

Theo tôi thì tất cả các Chân Kinh Phật Giáo đều là ‘vua’ của tất cả kinh điển.  Tất cả 84000 pháp môn như những dược vương cứu khổ rất hữu hiệu cho mỗi căn bệnh vô minh của chúng sinh.  Nhưng hình như tông phái (thừa) nào cũng còn chấp ngã, phân biệt nhị nguyên, tự phong cho mình là ‘thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn.’  Tôi không nghĩ Đức Thế Tôn dạy pháp chấp ngã thượng mạn như vậy mà theo tôi hiểu thì Ngài sáng lập ra ‘đạo Phật tân thời’ 2600 năm về trước vì Ngài thấy những đạo khác ở Ấn Độ thời đó hình như ‘đi trật đường rầy’ nên Ngài chỉ điều chỉnh lại? 

 

Có lẽ Bát Nhã Tâm Kinh là ‘duyên khởi Phật Đà’ đối với tôi nên tôi hơi thiên vị cứ tưởng kinh này là ‘Sư tổ chân kinh’ (Master Sutra.)  Kinh này cứ như là tuyệt kỷ ‘vô chiêu thắng hữu chiêu’ thiện nghệ tìm thấy chổ hổng.  Nó giúp tôi thấy đâu đâu cũng có lỗ hổng trống không của vòng tròn lớn lẫn nhỏ đang xoay để ‘thọc gậy hai bánh xe’ lớn nhỏ đó cũng như ứng dụng trí tuệ vô chiêu này vào trong đời sống, triết lý, toán học, khoa học, kỷ thuật, vật lý, vũ trụtôn giáo

 

Nguyên tắc của vô chiêu là bất động nhưng quán trí tuệ để thấy cái sơ hở của hữu chiêu vì hữu chiêu (sắc) luôn động, có sở trụ vô thường nên sẽ nhi sinh một cái lổ hổng trống ‘không anh minh’ nhưng chứa đầy vô minh của tham sân siđau khổ đầy khuyết điểm để vô chiêu thừa cơ tức khắc điểm thẳng vào tâm sắc bản lai diện mục của nó.

 

Tôi có tật làm biếng và không kiên nhẫn để đọc hết bộ kinh Bát Nhã cũng như bất cứ bộ kinh khác chỉ có học lóm vài ba chữ:  Sắc là Không; Không là Sắc!  Rồi thì đọc như vẹt với tâm si độn, lòng ngu muội, trí vô minh cho đến bây giờ vẫn không hiểu nó là cái quái đản (ma quái, spooky) gì nữa?

 

Nhưng rồi thì cái Sắc Không này nhập tâm, không muốn viết ra cũng không được vì vậy tôi phải tống nó lên internet để cùng nhau tu học.

 
2.    Bát Nhã Tâm Kinh và Toán Đại Số

 

Tôi xin dùng toán đại số để chứng minh, Sắc là Không và Không là Sắc trong Bát Nhã Tâm Kinh:

 

The following is my mathematical proof for Form = Emptiness in Buddhism Heart Sutra:

 

Let, a = b where, form is a = 1, and Emptiness = 0

 

Đặt, a = b và Sắc là a = 1, Không = 0, Vô Sắc = -1

 

Bắt đầu với công thức đơn giản trên:

 

Start with the above simple equation:

 

a = b  

 

Nhân 2 vế cho b:

 

Multiply both sides by b:

 

ab = b2

 

Trừ atừ 2 vế và ‘factorize:’

 

Subtract a2 from both sides and factorize:

 

ab-a2 = b2-a2

 

 

a(b-a) = (b+a)(b-a)

 

Đơn giản hóa và cọng -1 cho mỗi vế:

 

Simplify and add -1 to both sides:

 

a = b+a

 

a-1 = b+a-1

 

Bây giờ từ a = b

 

Now since a = b

 

Bắt đầu từ điềm chứng minh này, chúng ta phải viết như thế này:

 

The starting point of this proof, we can write this as:

 

a-1 = 2a-1

 

Và trong trường hợp nơi a = 1

 

And in the case where a =1

 

Chúng ta có:

 

We have:

 

1-1 = 2-1

 

Proved,

0 = 1

 

Đã chứng minh, Không = Sắc

 

Tóm lại:

 

 “In the arithmetic of love, one plus one equals everything, and two minus one equals nothing.”  Mignon McLaughlin

 

Tôi xin phiếm ‘dịch và tả:’

 

Trong toán học của tình yêu, 1 + 1 = tất cả, và 2 - 1 = Không.

 

Trong văn chương lãng mạn: Mình với Ta là tất cả trên đời, và chúng ta thiếu nhau thì đời vô nghĩa.

 

Theo triết lý: Mình với Ta tuy 2 mà 1, và Ta với Mình tuy 1 mà 2,  Mà 2 thiếu 1 thì Có cũng như Không.  Nhị mà trừ một thì không còn nhị nữa mà trở thành Bất Nhị

 

Theo triết lý Phật Giáo, Bát Nhã Tâm Kinh thì Sắc = Không; hay 1 = 0

 

Tôi cũng xin dùng toán đại số để chứng minh, Nhị Nguyên nhi sinh Tam Thừa; Nhị Nguyên = Tam Thừa; hay 1+1 = 3

 

The following is my mathematical proof for Form = Emptiness in Buddhism Heart Sutra:

 

Let, a = b where, a = 1

 

Đặt, a = b và a = 1

 

Bắt đầu với công thức đơn giản trên:

 

Start with the above simple equation:

 

a = b 

 

Nhân 2 vế cho b:

 

Multiply both sides by b:

 

ab = b2

 

Trừ atừ 2 vế và ‘factorize:’

 

Subtract a2 from both sides and factorize:

 

ab-a2 = b2-a2

 

a(b-a) = (b+a)(b-a)

 

Đơn giản hóa và cọng 1 cho mỗi vế:

 

Simplify and add 1 to both sides:

 

a = b+a

 

a+1 = b+a+1

 

Bây giờ từ a = b

 

Now since a = b

 

Bắt đầu từ điềm chứng minh này, chúng ta phải viết như thế này:

 

The starting point of this proof, we can write this as:

 

a+1 = 2a+1

 

Và trong trường hợp nơi a = 1

 

And in the case where a =1

 

Chúng ta có:

 

We have:

 

1+1 = 2+1

 

Proved,

1+1 = 3

 

Đã chứng minh, Phân biệt nhị nguyên = Tam Thừa

3.    Những con số nhị phân, thập phân và ternary trong điện tử (electronics)

Những thí dụ dưới đây cũng chứng minh 1 + 1 = 3; và 1 + 1 = 11 =3; 1 + 1 = 10 =3

Here is an image shows that 1 + 1 = 3:

Đây là một hình ảnh chỉ rằng  1 + 1 =3:

Chankinhtoanhoa

Hay

 

1+1 => 11 => 11 trong nhị phân (binary) là 3 trong thập phân (decimal)

 

Or

 

1+1 => 11 => 11 in binary is 3 in decimal

 

Hay

 

Giả sử 1+ 1 là nhị phân (Binary) và kết quả trong ternary. 1 + 1 = 10 (nhị phân) trong ternary = 3 trong số thập phân (decimal.)

 

Or

 

Assume 1+1 to be binary and the result to be in ternary. 1 + 1 = 10 (in binary) 10 in ternary = 3 in decimal 

 

4.    Trong trường hợp Bất Nhị (Nhất Thể, Nhất Thừa)

 

a+1 = 2a+1

 

Và trong trường hợp nơi a = 0

 

And in the case where a =0

 

Chúng ta có:

 

We have:

 

0+1 = 2 (0) +1

 

Proved,

1 = 1

 

Sắc = Sắc

 

Nhất Thể = Nhất Thể

 

5.    Trong trường hợp bờ bên kia (dark matters and dark energy)

 

a-1 = 2a-1

 

Và trong trường hợp nơi a = 0

 

And in the case where a =0

Chúng ta có:

 

We have:

 

0-1 = 2 (0) -1

 

Proved,

-1 = -1

 

Vô Sắc = Vô Sắc

 

6.    Tóm tắc về Tam Thừa, Pháp HoaBát Nhã Tâm Kinh

 

Theo Wikipedia, Tam Thừa (三乘, sa. triyāna) là ba cỗ xe đưa đến Niết-bàn, đó là Thanh văn thừa (zh. 聲聞乘, sa. śrāvakayāna), Độc giác thừa (zh. 獨覺乘, sa. pratyekabuddhayāna) và Bồ Tát thừa (zh. 菩薩乘, sa. bodhisattvayāna). Đại thừa gọi Thanh văn thừaTiểu thừa (sa. hīnayāna) với sự đắc quả A-la-hán (sa. arhat) là mục đích, Độc giác thừaTrung thừa (sa. madhyamāyāna) với quả Độc giác Phật. Bồ Tát thừa được xem là Đại thừa (sa. mahāyāna) vì nó có thể cứu độ tất cả chúng sinhhành giả trên xe này cũng có thể đắc quả cao nhất, quả Vô thượng chính đẳng chính giác (zh. 無上正等正覺, sa. anuttarasamyaksaṃbodhi).

 

Triyāna (Skt, three vehicles). In Mahāyāna literature, a name used for the three ways to salvation. These are: (1) the Śrāvakayāna or ‘vehicle of the hearers’ (also known as the Hīnayāna); (2) the Pratyekabuddhayāna or ‘vehicle of the Solitary Buddhas’; and (3) the Bodhisattvayāna or ‘vehicle of the Bodhisattvas’. Different ‘vehicles’ are said to have been taught by the Buddhas at different times as appropriate for different individuals. According to the Mahāyāna, however, the highest and greatest is the last.

 

Các phương tiện khác nhau như Thanh Văn thừa, Độc Giác thừa hay Bồ Tát thừa thật ra chỉ khác nhau vì phải cần phù hợp căn cơ của hành giả. Phật chỉ tuỳ cơ duyên, sử dụng các Phương tiện (sa. upāya) mà nói Tam thừa nhưng thật chất chỉ có Phật thừa (sa. buddhayāna) – nó dẫn đến Giác ngộ, bao trùm cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa.

 

Diệu pháp liên hoa kinh (zh. 妙法蓮華經, sa. saddharmapuṇḍarīka-sūtra), cũng được gọi ngắn là kinh Pháp Hoa.  Kinh này được Phật giảng trên đỉnh Linh Thứu cho vô số người nghe gồm có nhiều loài khác nhau. Trong kinh này, Phật chỉ rõ, tuy có nhiều cách để giác ngộ, nhưng chúng chỉ là phương tiện nhất thờithực tế chúng chỉ là một.

 

The Lotus Sūtra (Sanskrit: Saddharmapuṇḍarīka Sūtra, literally Sutra on the White Lotus of the Sublime Dharma) is one of the most popular and influential Mahayana sutras and the basis on which the Tiantai, Tendai, Cheontae, and Nichiren schools of Buddhism were established. For many East Asian Buddhists, the Lotus sutra contains the ultimate and complete teaching of the Buddha and the reciting of the text is believed to be very auspicious.

 

Trong kinh có ghi lý do Đức Phật xuất hiện nơi đời chỉ vì một đại sự nhân duyên lớn đó là Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến. Tại Phẩm Như Lai Thọ Lượng có nói rõ đức Phật Thích Ca Mâu Ni thọ mạng vô lượng, thành đạo từ vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp về trước, đức phậtnhập Niết Bàn cũng chỉ là phương tiện để giáo hóa chúng sinh, nhưng thực ra đức Phật Thích Ca vẫn ở lai nơi đời thường còn chẳng mất.

 

Trong kinh này, Phật không còn được xem là vị Phật lịch sử nữa mà là dạng xuất hiện của Pháp thân (sa. dharmakāya, xem Tam thân), là thể tính đích thật của muôn loài. Mỗi chúng sinh đều xuất phát từ dạng chuyển hoá này của Phật tínhvì vậy đều có thể trở về với chân tính của mình, trở thành một vị Phật.

Bát-nhã-ba-la-mật-đa (zh. 般若波羅蜜多, sa. prajñāpāramitā, en. perfection of wisdom/insight, de. Vollkommenheit der Weisheit/Einsicht/Erkenntnis) có nghĩa là sự toàn hảo (sa. pāramitā, en. perfection) của Bát-nhã (sa. prajñā). Cũng được gọi ngắn là Bát-nhã-ba-la-mật.

Truyền thống Đại thừa Đông á thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ (zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia. Tuy có vấn đề về mặt ngữ nguyên - ví như chiết tự pāram-itā và cho pāram là bỉ ngạn, là bờ bên kia và itā là đến, bước sang (gốc động từ √i, eti) - nhưng cách dịch Huệ đáo bỉ ngạn hoặc Trí độ vẫn có nghĩa vì chúng chỉ đến một loại trí huệ độ người sang bờ bên kia, từ bể luân hồi đến bờ niết-bàn. Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng là tên của một số bộ kinh quan trọng, xuất hiện khoảng thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, với nội dung xoay quanh chính Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, và cũng là tên của một vị Bồ Tát.

Prajñāpāramitā means "the Perfection of (Transcendent) Wisdom" in Mahāyāna Buddhism. Prajñāpāramitā refers to this perfected way of seeing the nature of reality, as well as to a particular body of sutras and to the personification of the concept in the Bodhisattva known as the "Great Mother" (Tibetan: Yum Chenmo). The word Prajñāpāramitā combines the Sanskrit words prajñā "wisdom" with pāramitā "perfection". Prajñāpāramitā is a central concept in Mahāyāna Buddhism and is generally associated with the doctrine of emptiness (Shunyata) or 'lack of Svabhava' (essence) and the works of Nagarjuna. Its practice and understanding are taken to be indispensable elements of the Bodhisattva path.

According to Edward Conze the Prajñāpāramitā Sutras are "a collection of about forty texts...composed in India between approximately 100 BC and AD 600." Some Prajñāpāramitā sūtras are thought to be among the earliest Mahāyāna sūtras.

One of the important features of the Prajñāpāramitā Sutras is anutpada (unborn, no origin).

Chankinhtoanhoa

Một bản của kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa bằng tiếng Phạn

References:

  1. http://puzzling.stackexchange.com/questions/5656/when-does-11-3
  2. Wikipedia
  3. http://dictionary.buddhistdoor.com/en/word/16617/triyana

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7843)
Bạo lực, khủng bố đã xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau trong những trường hợp khác nhau có liên quan đến cuộc đời của đức Phật... Thích Huệ Pháp dịch
(Xem: 8962)
Chánh Ngoa Tập (Uốn nắn những điều sai ngoa) trích từ bộ Vân Thê Pháp Vựng, Đời Minh, chùa Vân Thê ở Cổ Hàng, Sa-môn Châu Hoằng soạn, Như Hòa dịch.
(Xem: 26140)
Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam, Tập 1 và 2; HT Thích Trí Thủ chủ trương, Lê Mạnh Thát chủ biên
(Xem: 13818)
Các tác phẩm Phật giáo viết bằng Buddhist Hybrid Sanskrit xuất hiện sau khi Pāṇini đã hoàn thành việc chuẩn hóa tiếng Phạn vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 trước dương lịch.
(Xem: 27983)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 19857)
Tu Tuệ là cách tu tập bằng thiền định phân giải, tức hướng vào mục tiêu phát huy sự hiểu biết, một sự hiểu biết siêu nhiên về bản chất đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố...
(Xem: 7779)
Nghiệp không phát động từ bên ngoài mà sinh ra từ bên trong tâm thức của chính mình. Mỗi hành động (karma) đều tạo ra một hậu quả.
(Xem: 7617)
Làm sống lại những tiến bộ của người xưa, mỗi Phật tử sẽ trở thành gạch nối giữa quá khứhiện tại... Đỗ Thuần Khiêm
(Xem: 7483)
Khái quát trên đủ thấy Ðại Tạng kinh Hán văn là một bảo vật vô giá của Phật giáo và chung cho cả nền văn hóa thế giới... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 8036)
Cũng giống như trong Phật giáo, vạn pháp không hiện hữu, chỉ có mối liên hệ của chúng là hiện hữu... Trịnh Xuân Thuận
(Xem: 9748)
Trên thực tế, tất cả giáo huấn của Đức Phật đều nhằm giúp chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Phương pháp tiếp cận thật sự rất hợp lýthực tiễn.
(Xem: 22744)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 16929)
Khi Đức Phật ra đời, Ngài đã chỉ bày rõ ràng, cặn kẽ cho người xuất gia cũng như người tại gia ở từng địa hạt một của tâm linh... HT Thích Như Điển
(Xem: 8553)
Đức Phật A Di Đà không tự làm cho tội của chúng sanh tự tiêu hủy, mà cảnh giới của Ngài là nơi những chúng sanh ấy có thể nương nào đó để tồn tạitiến tu thêm nữa... HT Thích Như Điển
(Xem: 10407)
Phương pháp chuyển hóa tâm thức của Đạo Phật không chỉ là một vấn đề niềm tin mà cũng là một niềm tin đạt đến được qua thiền phân tích... Đức Đạt Lai Lạt Ma
(Xem: 10587)
Sau khi dạy cho chúng ta hiểu khổ là gì và nguồn gốc của khổ, Đức Phật đã chỉ cho chúng ta con đường diệt khổ, tức là Bát Chánh Đạo...
(Xem: 11278)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần TàiThổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
(Xem: 9900)
Phật giáo Mỹ sẽ phải phản ánh những nguyên tắc dân chủ, trong cái nghĩa “tự do và công lý cho mọi người”.
(Xem: 10573)
Muốn được giải thoát, trước hết chúng ta phải quan sát sự vật một cách thật cặn kẽ để có thể biết được và hiểu rõ bản chất thật sự của chúng.
(Xem: 12708)
Ý niệm về kinh liễu nghĩa và kinh không liễu nghĩa song hành với ý niệm về hai sự thật: Sự Thật Tương ĐốiSự Thật Tuyệt Đối.
(Xem: 8806)
Bản-thể-của-Phật còn gọi là Như Lai Tạng, Phật Tính, Pháp Giới, Chân Như... (tiếng Phạn là Tathagatagarbha), là một khái niệm quan trọng của Đại Thừa Phật Giáo.
(Xem: 19873)
Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
(Xem: 20832)
Bát chánh đạocon đường tâm linh có khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính...
(Xem: 21387)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
(Xem: 13444)
Phật pháp ẩn tàng trong tất cả sự sự vật vật, và con đường giác ngộNhư Lai tuyên thuyết vốn dành cho tất cả chúng sinh có duyên được tiếp cận với đạo Phật.
(Xem: 10574)
Biết thân là huyễn mộng còn khó vứt bỏ huống hồ người chẳng giải ngộ. Nương vào lời Phật mà hành, tự ta mới có thể chuyển mệnh...
(Xem: 9547)
Sáu ba-la-mật là Bồ-tát hạnh. Bồ-tát hạnh gồm có hai sự tích tập: tích tập phước đức là làm lợi lạc cho người khác và tích tập trí huệ là xóa tan bóng tối vô minh...
(Xem: 26765)
Theo giáo lý đạo Phật, không ai có thể siêu độ cho ai, không ai có thể giải thoát cho ai, ngoại trừ chính cá nhân người đó.
(Xem: 10752)
Những Tỷ-kheo trong hội chúng bậc Thánh rõ biết “Đây là khổ”. Vì thấy rõ khổ nên nhàm chán, viễn ly, không tham danh vọng...
(Xem: 12136)
Trung quán tông luận phá mọi kiến giải về Thực tướng, không phải để phủ nhận Thực tướng mà để đưa đến Prajña (trí tuệ Bát-nhã)...
(Xem: 30908)
Đây là bộ sách trích lục những từ ngữ trong phần “Chú Thích” và “Phụ Chú” của bộ sách GIÁO KHOA PHẬT HỌC do chúng tôi soạn dịch...
(Xem: 14140)
Người Phật tử, dù là xuất gia hay tại gia đều không thể sống buông thả, phóng dật. Bởi lẽ, chúng ta nhận thức đời người là vốn quý, cuộc sống lại có hạn.
(Xem: 11143)
Môn Nhân minh học Phật giáo dạy chúng ta tư duy đúng đắn để có nhận thức đúng đắn, là chìa khóa của mọi thành công ở đời.
(Xem: 11095)
Ý thức sâu sắc của người Phật tử đối với tầm quan trọng thực tiễn của hiện tại khiến cho họ năng động hơn, tỉnh táo hơn, làm việc hết mình trong hiện tại.
(Xem: 11245)
Đạo Phật nhắc nhủ chúng ta, muốn giác ngộgiải thoát, đi theo con đường Phật chỉ bày thì phải đi, phải tu, chứ không thể nói suông được.
(Xem: 11637)
Tất cả Phật tử chúng ta hãy sống thiện như những cái cây có bộ rễ toàn hút những chất ngọt trong đất. Nhất định đời sống chúng ta sẽ an lạc hạnh phúc.
(Xem: 12742)
Để dạy Vô ngãVô phân biệt trong khi hành động theo cách phân biệt kỳ thị là không phù hợp lời nói với hành động.
(Xem: 24056)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
(Xem: 14921)
Hiện tại là giờ phút duy nhất mà mình có thể chọc thủng được bức màn thương đau, bức màn vô minh để có thể tiếp xúc được ngay với an lạc, với hạnh phúc, với tuệ giác.
(Xem: 11648)
Góp duyên để người xuất gia hoàn thành sứ mạng thiêng liêng đồng nghĩa với hạnh nguyện hộ pháp.
(Xem: 20264)
Nếu ai bị ái làm khổ thân mà diệt được thì gọi là cứu cánh, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn, cứu cánh vô dư (Niết-Bàn).
(Xem: 10613)
Trong các thứ hạnh phúc, được thực tập và sống theo lời Phật dạy là an vui, hạnh phúc lớn nhất. Nhờ đó, ta có được bình yên, hạnh phúc thật sự...
(Xem: 10388)
Muốn vô hiệu hóa cơn giận, trước khi nó bộc phát, Phật dạy ta hãy thường xuyên quán chiếu, xem xét sâu vào nội tâm để ta luôn tỉnh giác từng tâm niệm của mình.
(Xem: 12290)
Xin hãy đọc Kinh điển với tâm sáng suốt thanh tịnh, không vội tin chắc vào bất kỳ điều gì, mà phải nỗ lực thông qua sự hành trì thực nghiệm...
(Xem: 11502)
Sự thật về mọi sự là vô thường, khổ, vô tự tánh, vô ngã, giả hợp, như mộng, như huyễn được đạo Phật gọi là chân lý tuyệt đối, tối hậu (chân đế).
(Xem: 14304)
Cùng với chánh niệm thường trực, tàm và quý chính là hai nhân tố vô cùng quan trọng để mỗi người tự răn nhắc mình hướng thượng và thăng hoa.
(Xem: 11956)
Do định sinh trí huệ, dùng trí huệ này quán sát các pháp sẽ thấy biết như thật, quán sát vũ trụ vạn vật đúng như nó là, không sai sót mảy may.
(Xem: 24625)
Những gì Đức Phật dạy chúng ta, bằng hai con đường: tâm linh và khoa học con người sẽ đạt được cứu cánh giải thoát khỏi tất cả mọi ràng buộc...
(Xem: 12353)
Chúng ta phải cố gắng loại trừ tất cả những cảm xúc tiêu cực và phát triển những cảm xúc tích cực - vô hạn lượng - đặc biệt trong sự thực hành Phật Giáo...
(Xem: 22289)
Để thành tựu được lễ dâng y kathina, người thí chủ cần phải có sự hiểu về tấm y gọi là “Y Kathina” và nghi thức làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng.
(Xem: 12572)
Đối với nhà Phật cho là con người ai cũng có Phật tánh, mà có Phật tánh tức là có tánh tốt.
(Xem: 12724)
Có thể nói, sự hiểu biết đúng đắn thuyết nhân quả nghiệp báo của đạo Phật sẽ tạo cho mỗi người một ý thức trách nhiệm rất cao đối với cá nhân mình và xã hội.
(Xem: 12640)
Đã là người đệ tử thì chúng ta phải tin và hành theo lời dạy của Phật, đó mới đúng là người đệ tử chân chánh, biết tôn sư trọng đạo, hiếu nghĩa trọn vẹn.
(Xem: 16820)
Có một thời gian Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên phụ trách trông coi việc dựng thiền-thất tại vườn Lộc-Dã; một hôm trong lúc Tôn-giả đang đi kinh hành trên khoảng đất trống...
(Xem: 13751)
Bất cứ một hiện tượng nào được phát sinh ra cũng đều phải nhờ vào một sự kết hợp của nhiều nguyên nhân và nhiều điều kiện...
(Xem: 13042)
Cách tốt nhất để vượt thắng những điều không may, hay những thứ xui xẻo hãy tự mình làm nên những công đứcthiền quán về tánh không...
(Xem: 13499)
Nghiệp báo của sự tàn phá môi trường được phản ánh trong cuộc thảm sát đẫm máu bạo tàn dòng họ Thích Ca (Sakyā) bởi lòng hiềm thù mê muội của vua Tỳ Lưu Ly...
(Xem: 12579)
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính...
(Xem: 14497)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
(Xem: 38471)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant