Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đôi Lời Về Xá Lợi Phật

10 Tháng Tư 201609:47(Xem: 9941)
Đôi Lời Về Xá Lợi Phật

 Đôi Lời Về Xá Lợi Phật

Lama Zopa Rinpoche
Hồng Như

Đôi Lời Về Xá Lợi Phật


Nói chung, không dễ gì lưu lại ngọc xá lợi, không dễ gì thành tựu đạo quả qua quá trình tu chứng với những kiếp tái sinh nối tiếp trong thiện đạo. Muốn được như vậy, phải phát nguyện rộng lớn mãnh liệt, phải giữ giới hạnh thanh tịnh trong sáng qua nhiều kiếp tái sinh tiếp nối, rồi mới có thể hội đủ nhân duyên lưu ngọc xá lợi. Ngọc xá lợi chỉ phát sinh từ công phu tu hành nghiêm mật.

Giáo pháp mật tông được chia thành bốn bộ. Trong bốn bộ mật tông, chỉ có Mật tông Tối thượng Du già là có thể giúp hành giả đạt quả vị Phật ngay trong kiếp hiện tiền, ngay trong thời mạt pháp, ngay với xác phàm này. Ba bộ còn lại không có khả năng ấy. Mật tông Tối thượng Du già bao gồm hai giai đoạn: giai đoạn phát khởi và giai đoạn viên thành. Giai đoạn phát khởi có hai phần, thô lậu và vi tế. Giai đoạn viên thành có năm lớp. Kinh Phật nói rằng người nào thành tựu “tâm biệt lập” (mind isolation) (thuộc giai đoạn viên thành) thì có khả năng lưu ngọc xá lợi. Đã thành tựu được “tâm biệt lập” thì chắc chắn có khả năng thành Phật ngay trong kiếp hiện tiền.

 Tương tự như vậy, chúng ta có thể nhìn thấy ngọc xá lợi của chư Phật, ví dụ như ngọc xá lợi của đức Phật bổn sư Thích Ca Mâu Ni và của đức Phật Ca Diếp (phạn: Kasyapa, tạng: Osung), là hai đấng giác ngộ đã thành tựu cả hai đường tu không mê lầmPhương TiệnTrí Tuệ. Ngọc xá lợi có được là nhờ Phật Thích Ca và Phật Ca Diếp đã từng miên mật hành trì Sáu Hạnh Toàn Hảo, năm đạo, mười địa, v.v... trong suốt ba thời kỳ vô số, tích tụ hai bồ tư lương Phước Tuệ, viên thành sắc thânpháp thân. Ngọc xá lợi có được là nhờ thành tựu này. 

 Nói chung, thân Phật không giống như xác thân thô lậu kết từ máu thịt của người thường. Dù vậy, đức Phật từ bichúng sinhthị hiện nhiều loại xá lợi khác nhau, giúp chúng sinh nuôi dưỡng tín tâm, nhờ đó có thể tiếp nhận lực gia trì, thanh tịnh nghiệp chướng, tích tụ công đức.

 Trong quá khứ, khi Phật còn ở Ấn Độ, nhiều người có thể trực tiếp thấy được thân Phật. Ngày nay, vì nghiệp chướng che khuất nên chúng ta không thể trực tiếp thấy thân Phật, cũng không thể trực tiếp nghe lời Phật dạy. Chúng ta chỉ có thể thấy được xá lợi Phật. Đức Phật từ bi thị hiện hàng ngàn ngọc xá lợi cho chúng sinh chiêm bái. Kinh Phật có nói – ví dụ kinh Dode Kalsang - rằng Quốc Vương Ashoka xem xá lợi Phậtbảo vật linh thiêng nhất, đã vì chúng sinh mà xây nhiều bảo tháp để cất giữ ngọc xá lợi. Có rất nhiều ngọc xá lợi còn lưu lại ở Sri Lanka. Xá lợi Phật hiện vẫn còn rãi rác nhiều nơi trên thế giới, gieo nguồn cảm hứng cho vô lượng chúng sinh, đưa chúng sinh đến bờ giải thoátgiác ngộ. Đó là lý do duy nhất vì sao Phật lưu ngọc xá lợi.

 Với hàng bồ tát thánh giả, Phật thị hiện báo thân. Với hàng bồ tát mới phát tâm, Phật thị hiện báo thân. Còn với chúng sinh nặng nghiệp, Phật thị hiện xác phàm máu thịt. Cũng như đức Đạt-lai Lạt-ma hiện nay chúng ta có thể gặp được, ngài chính là đức Quan Thế Âm (Chenrezig), nhưng kẻ phàm phu như chúng ta chỉ có thể thấy được sắc tướng của một tỷ kheo xác phàm chịu cảnh bịnh tật già nua v.v... Tương tự như vậy, các đấng hành giả tu mật pháp đạt đạo quả cao – ví dụ như đức Geshe Lama Konchog – sau khi nhập tịch các ngài lưu xá lợi lại cho chúng sinh. Tâm thức các thầy một khi đã vì lòng đại bi mà đạt đạo quả cao thì các thầy đủ khả năng lưu ngọc Xá lợi. Geshe Lama Konchog đã tạo cảm hứng cho biết bao nhiêu người, đưa vào chánh pháp, cấy trồng thiện duyên. Khi thấy ngọc xá lợi của một vị thánh giả, chúng ta nên suy nghĩ như sau: ngay bây giờ, chư thánh đang mang lợi lạc về cho chúng ta bằng cách thị hiện xá lợi để chúng ta tích tụ công đức, thanh tịnh nghiệp chướng, nhờ đó dẫn dắt chúng ta đến bờ giải thoát, giác ngộ. Vì vậy chúng ta phải hết lòng tùy hỉ công đức của các ngài, như là công đức của Geshe Lama Konchog hay của các vị khác.

Chúng ta phải phát tâm như sau: “Nguyện chúng con cũng đạt chánh giác như các đấng giác ngộ đã đạt. Nguyện chúng con cũng có khả năng mang lợi ích rộng lớn về cho chúng sinh như các đấng giác ngộ vẫn hằng làm”. Chúng ta đối trước biển công đức của chư Phật và bồ tát, phải khởi tâm hoan hỉ; đối trước mọi tánh đức siêu việt của thân ngữ ý của các đấng giác ngộ, phải khởi tâm hoan hỉ; đối trước tất cả các thiện phương tiện mà các đấng giác ngộ đã vận dụng để lợi ích chánh pháp, lợi ích chúng sinh, phải khởi tâm hoan hỉ. Nếu chúng ta có thể khởi tâm tùy hỉ mạnh mẽ như vậy, phát nguyện mạnh mẽ như vậy, chắc chắn sẽ có thể mang lợi lạc rộng lớn về cho chánh pháp và cho chúng sinh. Khế kinh có nói, “Tất cả các pháp đều là duyên, trụ ngay trên đầu nguyện ước. Bất cứ lời phát nguyện nào cũng sẽ đưa đến kết quả đúng y như vậy”. Nói như vậy, thiện hay bất thiện đều tùy ở ý niệm, vì vậy chúng ta cần cố gắng hết sức để giữ tâm nguyện của mình sao cho thật tốt lành.

 Lama Tông Khách Ba có nói, “ngoại trừ một vài trường hợp ngoại lệ hiếm hoi, nói chung nếu tu hành mà không thuận theo ba điểm tinh yếu của Phật đạo [là tâm buông xả, tâm bồ đềtrí tuệ tánh Không] thì dù có làm gì cũng chỉ là tạo nhân duyên trầm luân cõi ta bà.” Thường nói thánh vật có chức năng đặc biệt, cho dù cúng dường, lễ lạy hay đi nhiễu bằng tâm nguyện không tốt, ví dụ bằng lòng sân hận, thì tác dụng cũng vẫn tốt lành, vẫn có thể tạo đủ nhân tố để đạt trí toàn giác.

 Để có thể đạt đạo quả cao như đạt “tâm biệt lập” trong giai đoạn thành tựu của Mật tông Tối thượng Du giàtrước tiên phải chứng được tánh Không của Trung Quán Cụ Duyên (Madhyamaka Prasangika), khác với tánh Không của các tông phái khác. Rồi lại phải hành trì tất cả mọi giai đoạn tu hiển như là phát tâm bồ đề, từ bỏ tâm lý vị kỷ, nuôi dưỡng lòng vị tha. Muốn được như vậy, trước đó phải khởi tâm buông xả: chán khổ sinh tử cầu vui niết bàn. Cội rễ của tất cả những điều nói trên đều nằm ở tâm tôn kính đạo sư, thấy đạo sư chính là đức Phật hiện tiền. Để thấy đạo sư chính là đức Phật hiện tiền, chúng ta cần biết cách nương dựa đúng cách nơi đấng đạo sư, trong từng ý tưởng, trong từng hành động. Nhờ vào quá trình tu tập luyện tâm như vậy mà ngọc xá lợi mới có thể xuất hiện.

 Đó là lý do vì sao ngọc xá lợi được xem là thánh vật trân quí. Ngọc xá lợi xuất hiện và lưu lại trong cõi thế đều là nhờ lòng từ bi của các đấng giác ngộ, giúp chúng ta tích tụ công đức, giúp chúng ta thanh tịnh chướng nghiệp.

Lời ghi xuất xứ

 Bài pháp này được viết tại vùng đất thánh Bồ Đề Đạo Tràng vào ngày 29 tháng 01 năm 2002 trong kỳ Đại lễ Quán Đảnh Kalachakra do đức Quan Thế Âm, bậc toàn giác, đức Đạt-lai Lạt-ma truyền thọ. Ven. Pemba Sherpa chuyển Anh ngữ, Ven. Sarah Thresher hiệu đính. Lama Zopa Rinpoche soát bản dịch và hiệu đính. Ven. Constance Miller tại Ban Giáo Dục FPMT soát lại câu văn, tháng 5/2002.

 
Hồng Như chuyển Việt ngữ từ bản dịch Anh ngữ, 06/2006. 

Hạ tải bài tiếng Anh:

www.fpmt.org/teachers/zopa/advice/relicsKZR.pdf
(Mọi sai sót là của người dịch. Mọi công đức xin hồi hướng pháp giới chúng sinh.)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6118)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 9986)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7094)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7333)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6990)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9359)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5839)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7101)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6522)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6100)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7162)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14387)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20437)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9473)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7870)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8185)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7452)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9376)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7455)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7482)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7667)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9475)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8783)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7382)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7958)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7012)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7670)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9860)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8285)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8837)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7680)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8825)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8632)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 8002)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9011)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9429)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8740)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8881)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7227)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9185)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8602)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7893)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9628)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10173)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8770)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8382)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7638)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9335)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7479)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15352)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7301)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8479)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12242)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7303)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11495)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8317)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8042)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7910)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8920)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(Xem: 7411)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant