Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trung Luận

15 Tháng Tư 201619:14(Xem: 7190)
Trung Luận

TRUNG LUẬN

Chân Hiền Tâm

Trung Luận

Trung luận, do Bồ-tát Long Thọ làm ra. Được viết dưới dạng kệ tụng. Có khoảng 500 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu
Cuốn Trung luận trong đó có phần văn xuôi giải thích - được ngài Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, đệ tửTăng Duệ phân phẩm, đặt đề tựa và viết bài tựa - là của Phạm chí Thanh Mục. Phạm chí là người tin hiểu thâm pháp nhưng văn từ không được trau chuốt chính xác, có chỗ còn trái, khi thiếu, khi trùng. Pháp sư Cưu Ma La Thập đã cắt xén và bổ sung để lý được phù hợp với văn kinh. Song văn từ vẫn có chỗ thừa chỗ thiếu chưa được toàn vẹn.(1)

Các bản luận giảiViệt Nam gần đây, thường dựa vào các bài kệ lấy trong bản luận giải này. 

Bồ-tát Long Thọ

Bồ-tát Long Thọ, là Tổ thứ 14 trong 33 vị Tổ Thiền tông Ấn-Hoa. 

Ngày còn nhỏ, ngài rất thông minh. Nghe Phạm chí đọc tụng bốn bộ Vệ Đà liền thuộc.

20 tuổi chu du khắp nơi học các pháp thuật của ngoại đạo như sấm ký, toán số, thiên văn v.v… Học được phép tàng hình, nên cùng với ba người bạn vào cung vui vầy với các cung nữ. Bị vua bắt gặp, ba người bạn bị chém, ngài thoát được. Nhận ra ái dục chỉ mang đến đau khổ cho con người nên vào rừng ẩn tu. Lúc ấy, đệ tử có khoảng 500 người.

Sau khi được Tổ thứ 13 là Ca Tì Ma La giáo hóatruyền tâm ấn làm Tổ thứ 14, ngài đi khắp nơi truyền bá giáo pháp Đại thừa. Mục đích là chỉ cho chúng sinh nhận ra được Phật tánh của chính mình, đó mới là phước báu quý nhất đời người.

Khi giảng pháp, ngài thường nhập Nguyệt luân tam muộigiáo hóa. Người nghe pháp chỉ thấy tướng trăng tròn hiện trên không trung, không thấy hình tướng ngài mà chỉ nghe tiếng thuyết pháp.

Tổ thứ 15, khi ấy còn là một thanh niên con nhà trưởng giả, theo nghe pháp, đã giải thích: “Đây là Bồ-tát thị hiện để biểu thị Phật tánh. Mặt trăng tròn là nghĩa Phật tánh rỗng rang sáng suốt”. Đề Bà vừa dứt lời thì vầng trăng ẩn mất. Bồ-tát hiện ngồi an nhiên chỗ cũ và làm bài kệ:

Thân hiện tướng trăng tròn

Để nêu thể chư Phật

Thuyết pháp vô hình ấy

Dùng nói phi thanh sắc(2).

Thể chưa Phật, còn gọi là Phật tánh, tri kiến Phật, vô sinh, tánh không v.v… Đó là cội nguồn chân thật của tất cả pháp. Là những gì mà Trung luận muốn hiển bày qua con đường lý luận, hầu giúp người đời nhận ra tánh thực của tất cả pháp.

Khi mất, ngài cũng dùng loại tam muội ấy, hiện thần biến mà đi.

Y cứ của Trung luận

Trong Thuận Trung luận nghĩa nhập đại Bát-nhã  Ba-la-mật kinh của ngài Vô Trước(3), có ghi lại cuộc đối thoại giữa Đức Phật và vua trời Đế Thích như sau:

- Này Kiều Thi Ca! Ở đời vị lai, thiện nam tửthiện nữ nhân, tùy theo ý hiểu của mình, vì người mà thuyết Bát-nhã Ba-la-mật. Người đó chỉ thuyết tương tợ Bát-nhã Ba-la-mật không phải là chân thật Bát-nhã Ba-la-mật.

Vua Đế Thích hỏi:

- Bạch Thế Tôn, thế nào là chân thật Bát-nhã Ba-la-mật mà thuyết thành tương tợ Bát-nhã Ba-la-mật?

Phật trả lời:

- Người đó thuyết sắc vô thường… cho đến thức vô thường. Như thế mà thuyết về khổ, vô ngã, bất tịch tĩnh, không, vô tướng, vô nguyện. Như thế mà thuyết cho đến Nhất thiết trí. Người như vậy chẳng biết phương tiện, vì có sở đắc.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là chân thật Bát-nhã Ba-la-mật?

- Này Kiều Thi Ca! Sắc còn không có, chỗ nào có thường và vô thường? Như thế cho đến không có Nhất thiết trí, chỗ nào có thường cùng vô thường? Này Kiều Thi Ca ! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân dạy người tu hành Bát-nhã Ba-la-mật mà thuyết Bát-nhã Ba-la-mật thì nói như vầy: “Này thiện nam tử! Tu hành Bát-nhã Ba-la-mật, không có chút pháp có thể xả. Tâm ông chớ trụ trong chút pháp đó. Vì sao? Vì trong Bát-nhã Ba-la-mật như thế không có Chánh pháp. Nếu vượt ngoài pháp thì đó là không pháp, trụ ở chỗ nào? Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Như tất cả pháp tự thể tánh không. Nếu tất cả pháp tự thể đã không thì pháp không có tự thể. Nếu không có tự thể, gọi là Bát-nhã Ba-la-mật. Nếu là Bát-nhã Ba-la-mật thì pháp đó không có chút pháp có thể thủ, có thể xả. Như sinh, như diệt, như thường, như đoạn, như nhất nghĩa, như dị nghĩa, như đến, như đi. Đó là chân thật Bát-nhã Ba-la-mật.

Đoạn kinh trên cho thấy Trung luận y cứ trên Bát-nhã Ba-la-mật mà lập, cùng tinh thần với Bát-nhã Ba-la-mật. Là mật ý phá tướng hiển tánh(4).     

Do đâu có tên Trung luận?

Đã được nói khá rõ trong bài tựa của ngài Tăng Duệ: “Lấy Trung làm tên để chiếu soi cái thật. Dùng Luận mà gọi để thấu hết ngôn từ. Cái thật nếu không có tên thì không thể biết, nên gá vào Trung mà nói. Ngôn từ nếu không giải thích thì chẳng thấu suốt, nên phải mượn Luận làm rõ”.

Trung, không phải là giữa mà không thuộc nhị biên phân biệt.

Nhị biên phân biệt là hai bờ mé đối đãi như sinh và diệt, thường và đoạn, ngắn và dài v.v… nói “phân biệt” vì chúng do tâm phân biệt mà có.

Kinh luận thường dùng 4 từ vô, bất, phi, ly đặt trước các khái niệm đó để diễn cái nghĩa “không thuộc nhị biên phân biệt”. Đó là cách trả lời của ba đời chư Phật cho vấn đề thực tánh(5). Trong Lăng già tâm ấn, Phật dùng cả 4 từ đó để trả lời 108 câu hỏi của ngài Đại Huệ. Trả lời câu “sinh” là “bất sinh”, câu “thường”(6) là “vô thường”, câu “sát-na” là “phi sát-na”, câu “tự tánh” là “ly tự tánh”. Đại sư Hàm Thị bàn rằng: “Đó là lời chỉ thẳng. Chỉ ngăn cái quấy kia mà không nói cái phải kia. Nếu có chỗ phải thì khác nào cái quấy. Như vàng làm đồ trang sức. Vàng không phải bình, không phải xuyến, không phải thoa, khiến người ngay đó thấu suốt. Nói “không phải” nghĩa là không phải bình, không phải xuyến, không phải thoa để rõ nó là vàng vậy”.

Để diễn bày nghĩa đó, Trung luận dùng tám chữ “bất”, gọi là Bát bất:

Bất sinh diệc bất diệt

Bất thường diệc bất đoạn

Bất nhất diệc bất dị

Bất lai diệc bất khứ. 

Dịch:

Chẳng sinh cũng chẳng diệt

Chẳng thường cũng chẳng đoạn

Chẳng một cũng chẳng khác

Chẳng đến cũng chẳng đi. 

Tánh thể vô sinh không có tự tánh, bất giác mà khởi cái thấy hư vọng (Năng kiến tướng) cùng cảnh giới hư vọng (Cảnh giới tướng)(7). Như ngủ mê rồi mộng mà thấy có ta, có người, có đến, có đi. Từ đó mới có sinh, có diệt... Đều là cái thấy của người trong mộng, do vô minh bất giác mà có. Tánh thể vô sinh chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng thường, chẳng đoạn... Cho nên, thấy đoạn thấy thường mà thật khôngđoạn thường, thấy sinh thấy diệt mà thể tánh vốn vô sinh

Hoàng Bá nói: “Chỉ cần ông không tạo ra Phật kiến thì không rơi vào Phật biên. Không tạo ra cái thấy chúng sinh thì không rơi vào giới hạn chúng sinh. Không gây ra cái thấy có thì không lạc vào giới hạn của có…”(8). Cho nên, phủ định các tướng nhị biên là để hành giả không trụ tâm nơi các biên đó. Không trụ các biên tức là trụ chỗ vô trụ. Vô trụ, nên nói trụ mà thật là không có năng trụ, sở trụ. Là chứng nhập thể tánh vô sinh của chính mình, cũng là thể tánh của tất cả pháp.

Trong Pháp bảo đàn kinh, Lục Tổ hỏi Thượng tọa Minh: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?”. Thiện và ác là nhị biên phân biệt. Không nghĩ thiện không nghĩ ác là đang ứng dụng Trung đạo. Nếu ngay đó có thể liền nhận thì Trung đạo chính là vô sinh. Không thể liền nhận thì Trung đạocon đườnghành giả phải đi qua nếu muốn thành tựu quả Phật, không có đường nào khác. Giải quyết xong cái tâm sinh diệt của phàm phu thì cũng không an trụ nơi cái tâm không tịch của Nhị thừa. Tâm vô trụ thì tương ưng với thể vô trụ. Tâm vô sinh thì tương ưng với thể vô sinh. Đó chính là tánh thể của tất cả pháp.

Nhân duyên lập ra Trung luận

Tăng Duệ viết: “Trung luận nhằm chỉnh lý nội giáo, khai thông bế tắc”. Nội giáo nói đây, chỉ cho phần giáo thuyết cũng như tu chứng của hàng Nhị thừa, lấy quả vị La-hán và Độc giác làm chỗ an trụ tối cùng. Ngoài ra còn chỉ cho hàng Bồ-tát chưa chứng nhập được cái nhân vô sinh (Phật tánh). Ngài Tăng Duệ gọi chung là “hàng không tịch”.

Vì sao phải khai thông?

quả chứng của hàng Nhị thừa chỉ mới là hóa thành chưa phải bảo sở.

quả chứng đó chỉ mới phá được ngã không, chưa thấu được pháp không.

chứng quả vị đó rồi, cũng mới thoát được cái khổ của Phần đoạn sinh tử, chưa thoát được cái khổ của Biến dịch sinh tử(9).

Vì chư vị chưa thấy được Phật tánh, là cái nhân vô sinh để có cái quả là Niết-bàn Phật(10).

Vì chư vị chưa thấu được lý duy tâm duy thức, vẫn thấy ngoài tâm có pháp, vẫn chưa thể thấy tánh Niết-bàn sinh tử vốn không hai. 

Trung luận vì đó mà hiển bày. Nhằm khai thông sự ngưng trệ.

Đối tượng của Trung luận

Duyên khởi của Trung luận như vậy, nên Trung luận không phải là bộ luận mang tính phổ thông đại chúng, cũng không phải là bộ luận dành cho hàng phàm phu chưa có niềm tin sâu xa đối với Phật pháp.

Đọc Trung Luận mà thấy khó tin, khó hiểu hay cho nó như trò đùa rồi sinh tâm phỉ báng, xét ra không phải là chuyện khó hiểu. Chỉ vì dụng pháp không đúng duyên. Nói chính xác là chưa đủ duyên để đọc nó nên mới phát sinh những sự việc như thế.

Vì chưa đủ duyên mà thành khó hiểu, nên việc khó hiểu trong hiện tại không có nghĩa là sẽ khó hiểu trong tương lai, khi đã đủ duyên.

Tâm thức chúng ta không thường hằng, mọi thứ đều có thể thay đổi, nên trước chưa tịch tĩnh, sau vẫn có thể tịch tĩnh, chưa tịch tĩnh được toàn phần thì tịch tĩnh một đôi phần. Việc tu hành không tích tụ trong một đời, Bồ-tát ra đời cách ấm còn mê, nên trước không thâm nhập được kinh luận không có nghĩa là sau cũng không thậm nhập được kinh luận. Trí tuệ không lệ thuộc vào thân tướng bên ngoài, nên Trung luận không giới hạn cho xuất gia hay tại gia… Cho nên, đừng bao giờ ngừng đọc nó khi có duyên gặp lại. Bởi mọi thứ đều có thể thay đổi khi tâm thay đổi.

Luận giải của Trung luận

Trung luận, tinh thần chính của nó là hiển bày tánh thể vô sinh của tất cả pháp thông qua Trung đạo và bằng con đường luận lý. Vì thế, cũng là luận nhưng luận của Trung luận là dùng lý luận để biện biệt đúng sai, phát minh chánh lý.

Trung luận, y Bát-nhã mà lập, nên những gì thuộc mặt hiện tượng đều được phân tích phá bỏ. Phá, nhằm hiển bày thực tánh của những hiện tướng đó. 

Trung luận, muốn giúp cho hàng không tịch hiểu không phải chỉ có “ngã” không mà “pháp” cũng không, nên dù là lý Nhân duyên - Thực lý mà Phật đã nói trong các kinh thuộc hệ A-hàm như sau: “Do duyên sinh, lão tử có mặt. Dù chư Như Lai xuất hiện ở đời hay không xuất hiện ở đời, bản chất các pháp vẫn là thế, vẫn quyết định tánh ấy, vẫn theo duyên như thế” - vẫn được mang ra phân tích, để thấy từ nhân đến quả, không hề tìm thấy một tướng sinh nào như chúng ta vẫn lầm nghĩ, vẫn cho là có nhân duyên sinh pháp, gắn cho nhân duyên một tánh thực. Tất cả đều là biến hiện của tự tâm, do bất giác mà có, không có chất thực, như ngủ rồi mộng.

Hỏi:

Đã nói “vẫn quyết định tánh ấy, vẫn theo duyên như thế”, sao lại nói là lầm nghĩ?

Đáp:

Ngài Tăng Duệ nói: “Cái ngộ thiên không khởi từ cái trí yểm lý(11). Kẻ tiết tháo vì đó mà thành trái”. Kẻ tiết tháo thì không phải là hạng tà hạnh, tầm thường, nhưng vì lấy hóa thành làm bảo sở, nhận chỗ chưa rốt ráo làm chỗ rốt ráo mà thành trái. Như đi từ Sài Gòn về Vũng Tàu đều phải qua Long Thành, Bà Rịa. Đi như thế không trái. Trái chỉ xảy ra khi cho Long Thành hay Bà Rịa là Vũng Tàu. Đây cũng vậy, một khi đã mê rồi mộng thì khi đang trong mộng, mọi hành tác đều bị chi phối bởi lý Nhân duyên. Không có thứ gì vận hành không theo quy luật ấy, nên nói “Vẫn quyết định tánh ấy, vẫn theo duyên như thế”. Nhưng mộng không phải thực, chỉ là sự biến hiện của tự tâm. Thành nói “quyết định”, nói “theo duyên như thế” tuy cho thấy lý Nhân duyên là chánh lý, nhưng chỉ là chánh lý của người trong mộng. Giờ phá là để giúp chúng sinh tỉnh mộng. Hầu nhận ra những gì chúng sinh cho là thực chỉ là những biến hiện của tự tâm, do sức ngủ vô minh mà có.

Nhận ra thì mới trực nhận được “Pháp do nhân duyên sinh/ Ta nói tức là không”(12). Không, thì không có tâm chấp thủ đối với các pháp. Không chấp ngã thì không có ba cõi (hữu)(13). Không thủ Niết-bàn thì mới chứng được tánh thể vô sinh, nhập được Niết-bàn vô trụ xứ. 

Nói phá Nhân duyên, phá Tứ đế, phá Pháp hay phá Niết-bàn…14 chính là phá đi sự chấp thủ đối với các pháp ấy.

Kết luận

Nắm được tinh thần chung của Trung luận không khó. Nhưng theo cho được lý luận của Trung luận mới có thể nhận ra cái hay của Trung luận, mới thấy cái nhìn của mình hạn cuộc đối với các pháp ra sao. Vì thế, đọc Trung luận không thể bỏ qua phần luận lý, giúp phá bỏ cái trí an trụ nhị biên, hiển bày con đường Trung đạo, thâm nhập đạo lý vô sinh.  

 Chú thích

 (1) Bài tựa giới thiệu Trung luận của ngài Tăng Duệ.

(2) Sử 33 vị Tổ thiền Thiền tông Ấn Hoa - HT.Thích Thanh Từ. 

(3) Đại tạng kinh - cuốn 30 - Kinh hiệu số 1565.

(4) Nguồn thiền - Đại sư Tông Mật - HT.Thích Thanh Từ dịch giảng.

(5) Lăng-già tâm ấn ghi: “Từ 108 câu ở trên, như chư Phật đã nói: Câu “sinh” là bất sinh...”.  

(6) Ngoại đạo chấp có tánh thường nên nói vô thường.

(7) Luận Đại thừa khởi tín cuốn I - Bồ-tát Mã Minh.

(8) Kinh Thủ lăng nghiêm tông thông - Cư sĩ Tăng Phụng Nghi giải - Thiền sư Nhẫn Tế dịch - NXB.Tôn Giáo phát hành. 

(9) Luận đại thừa khởi tín cuốn II - Bồ-tát Mã Minh.

(10) Lăng-già tâm ấn ghi: “Phật tánh là nhân. Niết-bàn là quả”. 

(11) Bài tựa viết cho cuốn Trung luận của ngài Thanh Mục.

(12) Trung luận - phẩm Tứ đế - Bồ-tát Long Thọ.

(13) Thập nhị duyên sinh: Do “ái” và “thủ” mà đưa đến “hữu”. 

(14) Các đề tựa trong Trung luận.

Chân Hiền Tâm

 
Ý kiến bạn đọc
15/04/20166:30 SA
Member
- Này Kiều Thi Ca! Ở đời vị lai, thiện nam tửthiện nữ nhân, tùy theo ý hiểu của mình, vì người mà thuyết Bát-nhã Ba-la-mật. Người đó chỉ thuyết tương tợ Bát-nhã Ba-la-mật không phải là chân thật Bát-nhã Ba-la-mật.

Vua Đế Thích hỏi:

- Bạch Thế Tôn, thế nào là chân thật Bát-nhã Ba-la-mật mà thuyết thành tương tợ Bát-nhã Ba-la-mật?

Phật trả lời:

- Người đó thuyết sắc vô thường… cho đến thức vô thường. Như thế mà thuyết về khổ, vô ngã, bất tịch tĩnh, không, vô tướng, vô nguyện. Như thế mà thuyết cho đến Nhất thiết trí. Người như vậy chẳng biết phương tiện, vì có sở đắc.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là chân thật Bát-nhã Ba-la-mật?

- Này Kiều Thi Ca! Sắc còn không có, chỗ nào có thường và vô thường? Như thế cho đến không có Nhất thiết trí, chỗ nào có thường cùng vô thường? Này Kiều Thi Ca ! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân dạy người tu hành Bát-nhã Ba-la-mật mà thuyết Bát-nhã Ba-la-mật thì nói như vầy: “Này thiện nam tử! Tu hành Bát-nhã Ba-la-mật, không có chút pháp có thể xả. Tâm ông chớ trụ trong chút pháp đó. Vì sao? Vì trong Bát-nhã Ba-la-mật như thế không có Chánh pháp. Nếu vượt ngoài pháp thì đó là không pháp, trụ ở chỗ nào? Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Như tất cả pháp tự thể tánh không. Nếu tất cả pháp tự thể đã không thì pháp không có tự thể. Nếu không có tự thể, gọi là Bát-nhã Ba-la-mật. Nếu là Bát-nhã Ba-la-mật thì pháp đó không có chút pháp có thể thủ, có thể xả. Như sinh, như diệt, như thường, như đoạn, như nhất nghĩa, như dị nghĩa, như đến, như đi. Đó là chân thật Bát-nhã Ba-la-mật.
Có ai dám xác nhận đây là đoạn kinh Phật thuyết không .Tôi đọc mấy tạng kinh nguyên thủy không có chỗ nào hay đoạn nào Phật thuyết như vậy cả.Nếu không có thì là Phật không thuyết mà lại gán cho Phật thuyết thì là Đại vọng ngữ rồi.Riêng cá nhân tôi thì thấy không bao giờ Phật thuyết đoạn kinh trên vì Phật thuyết rõ ràng "KHỔ-TẬP-DIỆT-ĐẠO" là chân lý thế mà ở đây lại khác thế ra Phật nói 2 lời à điều này không bao giờ có ở Phật .
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14204)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15529)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13232)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19389)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24661)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15762)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37860)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13496)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13118)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17198)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13219)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17406)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21689)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13270)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14434)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12872)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13684)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28662)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23436)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34423)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28901)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32211)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11340)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12013)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26321)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17410)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14543)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34553)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13142)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12293)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13426)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40557)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26975)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14478)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13273)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13477)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12547)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13167)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12328)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11818)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12600)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17684)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12233)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12771)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18461)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14314)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 13021)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11335)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12174)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13491)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10865)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11093)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10315)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28947)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25326)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26889)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25804)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18697)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23079)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34601)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant