Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Người Ác Gánh Hậu Quả Ác Do Mình Làm

10 Tháng Năm 201609:12(Xem: 8418)
Người Ác Gánh Hậu Quả Ác Do Mình Làm
NGƯỜI ÁC GÁNH HẬU QUẢ ÁC DO MÌNH LÀM 
Câu Chuyện Về Người Thợ Săn Koka, Kệ 125 - Kho Báu Sự Thật,

Kinh Pháp Cú Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero -

Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến - Hình Vẽ: P. Wickramanayaka  -
Source-Nguồn: www.buddhanet.net
(Wrong Done To Others Returns To Doer - The Story Of Koka The Huntsman, Verse 125 - Treasury Of Truth,
Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)

Người Ác Gánh Hậu Quả Ác Do Mình Làm


BÀI KỆ 125:

125. Yo appaduṭṭhassa narassa dussati
suddhassa posassa anaṅgaṇassa
tam’eva bālaṃ pacceti pāpaṃ
sukhumo rajo paṭivātaṃ’va khitto. (9:10)

Khi người ác xúc-phạm người hiền lành và vô tội,
thì hậu-quả của hành-động ác nầy, đánh ngược lại người làm-ác,
cũng giống như khi ném bụi bẩn ngược chiều gió, bụi bẩn bay ngược lại người ném.

Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về người thợ săn Koka.

Vào một buổi sáng, người thợ săn Koka đi săn mang theo một đàn chó săn, ông ta gặp một nhà sư đi vào thành phố để khất thực. Ông ta cho là một điềm xấu, nên ông ta càu nhàu với chính mình, "Tôi nghĩ tôi sẽ không săn được con thú nào ngày hôm nay đâu, bởi vì tôi đã gặp nhà sư nghèo khổ nầy," rồi ông ta tiếp tục đi săn. Đúng như dự đoán của ông, ông chẳng săn được con thú nào. Trên đường ông về nhà, ông lại gặp nhà sư lúc nẫy, trên đường nhà sư trở về tu viện, và người thợ săn trở nên rất là tức giận. Vì vậy, ông thúc giục những con chó săn đuổi theo cắn nhà sư. Thật là nhanh nhẹn, nhà sư leo lên cành cây cao, vượt ra khỏi tầm với của các con chó săn. Sau đó, người thợ săn đi đến gốc cây, dùng đầu nhọn của mũi tên đâm vào hai gót chân của nhà sư. Nhà sư vì quá đau đớn, cho nên tay nhà sư không thể nào giữ được tấm y choàng; và do đó tấm y của nhà sư bị tuột ra, rơi xuống, rồi choàng ngay lên thân thể của người thợ săn, lúc đó đang đứng ở dưới gốc cây.

Những con chó nhìn thấy tấm y choàng mầu vàng, và nghĩ rằng nhà sư đã rơi xuống từ ngọn cây, nên chúng vồ lấy thân thể người thợ săn, cắn xé, và lôi kéo kịch liệt. Nhà sư, từ chỗ núp trên ngọn cây, bẻ một cành khô và ném cành khô về phía các con chó. Lúc đó, các con chó phát hiện ra rằng chúng đã tấn công nhầm ông chủ của chúng thay vì nhà sư, nên chúng bỏ chạy vào trong rừng. Nhà sư leo xuống cây, rồi nhận thấy rằng người thợ săn đã chết, nhà sư cảm thấy rất tội nghiệp cho người thợ săn. Nhà sư tự hỏi rằng ông có phải chịu trách nhiệm gì về cái chết nầy không, bởi vì người thợ săn đã chết do tấm y của nhà sư choàng lên thân thể của ông ta.

Vì thế, nhà sư đi gặp Đức Phật để ngài làm sáng tỏ những nghi ngờ của nhà sư. Đức Phật nói rằng: "Con ơi, con hãy yên tâm, và đừng có lo lắng gì cả; con sẽ không phải chịu trách nhiệm gì về cái chết của người thợ săn; hạnh kiểm đạo đức (sīla) của con cũng không bị dơ bẩn bởi vì cái chết nầy. Thật thế, người thợ săn nầy đã làm một điều rất là ác đức, vì xúc phạm đến một người hiền lành, và vô tội, do đó, người thợ săn đã phải gánh chịu một kết thúc đau thương như thế nầy."

BÀI KỆ 125, GIẢI THÍCH TỪ TIẾNG PALI:

125. yo appaduṭṭhassa suddhassa anaṅgaṇassa narassa posassa
dussati (taṃ) pāpaṃ paṭivātaṃ khitto sukhumo rajo iva
taṃ bālaṃ eva pacceti

yo: nếu một người nào đó; appaduṭṭhassa: là (thì) không-có tì vết, không-có tính xấu; suddhassa: là (thì) tinh khiết; anaṅgaṇassa: là người không-còn sự nhơ-nhuốc; narassa posassa: đối với một người như vậy; dussati: một người trở nên ác độc; pāpaṃ: hành động xấu xa đó; paṭivātaṃ: ngược gió; khitto: ném; sukhumo rajo iva: giống như bụi bẩn; taṃ bālaṃ eva: đến người thiếu hiểu biết (đó) ; pacceti: ngược lại

Nếu một người thiếu hiểu biết có hành-động ác độc, và thô-tục đến một người trong sạch, không có tì vết, và hiền lành, thì hậu quả của hành-động ác nầy sẽ đánh ngược lại người làm-ác. Cũng giống như khi ném bụi bẩn ngược chiều gió. Bụi bẩn bay ngược lại người ném.

Bài kệ 125 trong Kinh Pháp Cú nầy, đã được anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thành thơ như sau:

(125) Khi mà kẻ ác hại người. Tâm tư trong sạch, cuộc đời hiền lương, Ác kia trở lại thảm thương. Gây cho kẻ ác trăm đường khổ thay. Tựa như ngược gió vung tay. Tung ra bụi bẩn, bụi bay lại mình.

BÌNH LUẬN:

anaṅgaṇassa: đến (tới) một người không-còn sự nhơ-nhuốc - aṅganas. Aṅganas là các sự nhơ-nhuốc mà được sinh ra từ rāga (lòng tham muốn, sự đam mê), dosa (sân hận, ý xấu), và moha (si mê, thiếu hiểu biết). Ba điều trên (tham sân si) được mô tả như là aṅganas (nghĩa đen, là khoảng không gian rộng lớn; là sân chơi đùa rông lớn) bởi vì điều-ác có thể chơi đùa với tham-sân-si hoàn toàn tự do, mà không bị cản trở. Đôi khi, 'các vết bẩn', cũng được gọi là aṅgana. Nguyên thủy của từ ngữ aṅgana, cũng có nghĩa là khả năng làm xấu xa, một người bị nhơ nhuốc bởi vì các tật xấu. Trong một số trường hợp, aṅgana có nghĩa là bụi đất, sự dơ bẩn. Một người nào không-còn sự nhơ-nhuốc được gọi là anaṅgana.

Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf

 

Wrong Done To Others Returns To Doer
 The Story Of Koka The Huntsman,
Verse 125 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net

VERSE 125:

125. Yo appaduṭṭhassa narassa dussati
suddhassa posassa anaṅgaṇassa
tam’eva bālaṃ pacceti pāpaṃ
sukhumo rajo paṭivātaṃ’va khitto. (9:10)

Who offends the inoffensive,
the innocent and blameless one,
upon that fool does evil fall
as fine dust flung against the wind.

While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha spoke this verse, with reference to Koka the huntsman.

One morning, as Koka was going out to hunt with his pack of hounds, he met a monk entering the city for almsfood. He took that as a bad omen and grumbled to himself, “Since I have seen this wretched one, I don’t think I would get anything today,” and he went on his way. As expected by him, he did not get anything. On his way home also, he saw the same monk returning to the monastery, and the hunter became very angry. So he set his hounds on the monk. Swiftly, the monk climbed up a tree to a level just out of reach of the hounds. Then the hunter went to the foot of the tree and pricked the heels of the monk with the tip of his arrow. The monk was in great pain and was not able to hold his robes on; so the robes slipped off his body on to the hunter who was at the foot of the tree.

The dogs seeing the yellow robe thought that the monk had fallen off the tree and pounced on the body, biting and pulling at it furiously. The monk, from his shelter in the tree, broke a dry branch and threw it at the dogs. Then the dogs discovered that they had been attacking their own master instead of the monk, and ran away into the forest. The monk came down from the tree and found that the hunter had died and felt sorry for him. He also wondered whether he could be held responsible for the death, since the hunter had died for having been covered up by his yellow robes.

So, he went to the Buddha to clear up his doubts. The Buddha said, “My son, rest assured and have no doubt; you are not responsible for the death of the hunter; your morality (sīla) is also not soiled on account of that death. Indeed, that huntsman did a great wrong to one to whom he should do no wrong, and so had come to this grievous end.”

EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 125)

yo appaduṭṭhassa suddhassa anaṅgaṇassa narassa posassa
dussati (taṃ) pāpaṃ paṭivātaṃ khitto sukhumo rajo iva
taṃ bālaṃ eva pacceti

yo: if someone; appaduṭṭhassa: is unblemished; suddhassa: is pure; anaṅgaṇassa: is free of defilements; narassa posassa: to such a human being; dussati: a person were to become harsh; pāpaṃ: that evil act; paṭivātaṃ: against the wind; khitto: thrown; sukhumo rajo iva: like some fine dust; taṃ bālaṃ eva: to that ignorant person himself; pacceti: returns

If an ignorant person were to become harsh and crude towards a person who is without blemishes, pure, and is untouched by corruption, that sinful act will return to the evil-doer. It is very much like the fine dust thrown against the wind. The dust will return to the thrower.

COMMENTARY

anaṅgaṇassa: to one bereft of defilements – aṅganas. Aṅganas are defilements that are born out of rāga (passion), dosa (ill-will), and moha (ignorance). These are described as aṅganas (literally, open spaces; play-grounds) because evil can play about in these without inhibition. At times, ‘stains’, too, are referred to as aṅgana. Etymologically, aṅgana also means the capacity to deprave a person defiled by blemishes. In some contexts, aṅgana implies dirt. An individual who is bereft of defilements is referred to as anaṅgana.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5791)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7413)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6342)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5950)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4732)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5656)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5824)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6103)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6582)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5919)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7022)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6627)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4749)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4903)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7666)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9786)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7491)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5297)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6404)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5396)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5812)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6379)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5682)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6389)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7046)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6260)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10616)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6655)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6139)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6695)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6091)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6468)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5496)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8218)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5713)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7540)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6235)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9639)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4048)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6375)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4154)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4293)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4739)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5292)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5254)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5800)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6746)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5531)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4485)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5320)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 4959)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4346)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6852)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4585)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8389)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7196)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8348)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
(Xem: 7464)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
(Xem: 7551)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
(Xem: 6087)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant