Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngũ Uẩn Giai Không

15 Tháng Năm 201619:00(Xem: 8604)
Ngũ Uẩn Giai Không
NGŨ UẨN GIAI KHÔNG

Truyền Bình

Ngũ Uẩn Giai Không

Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không. Trong bốn từ này có ba từ dễ hiểu, không cần giải thích, mọi người đều có thể mường tượng ý nghĩa của nhóm chữ, chỉ có từ Uẩn là khá khó hiểu.

Ngũ uẩn giai không 五蘊皆空 nghĩa là năm uẩn đều không có thật. Chữ uẩn 蘊 (skandha) còn gọi là ấm 陰 Uẩn là nhóm hay tập hợp hoặc tích hợp. Ngũ uẩn giai không 五蘊皆空 nghĩa là năm uẩn đều không có thật. Chữ uẩn 蘊 (skandha) còn gọi là ấm 陰 Uẩn là nhóm hay tập hợp hoặc tích hợp. Ngũ uẩn bao gồm : Sắc (vật chất, matter, material); Thọ (cảm giác, perception); Tưởng (tưởng tượng, imagination) ; Hành (chuyển động, motion); Thức (nhận thức, phân biệt, conciousness, alaya, discrimination).

Chữ uẩn mang hàm ý tích hợp, là tập hợp của nhiều phần tử để tạo ra một hiện tượng ảo hóa. Bởi vì hiện tượng ảo hóa đó kéo dài và con người không có cách nào để phát hiện tính cách giả tạo của hiện tượng nên lầm tưởng là thật, và từ lầm tưởng đó mà sướng khổ một cách vô căn cứ. Tất cả mọi sướng khổ đều là vô căn cứ bởi vì nó dựa trên tưởng tượng. Tưởng tượng này kinh điển Phật giáo gọi là thế lưu bố tưởng tức là tưởng tượng đã phổ biến qua nhiều đời ở thế gian. Nguyên lý của vấn đề này nằm ở chỗ kinh điển gọi là tất cả các pháp đều không có tự tính, tất cả mọi tính chất của pháp là do tưởng tượng gán ghép của con người. Dễ thấy nhất là ngôn ngữ, từ ngữ của của bất cứ ngôn ngữ nào đều không có ý nghĩa, mọi ý nghĩa đều là do con người gán ghép cho từ ngữ. Tương tự như vậy, tất cả mọi vật trong vũ trụ đều không có thực chất, mọi tính chất đều do chúng sinh gán ghép cho vật. Đó cũng chính là ý nghĩa của ngũ uẩn giai không. Khoa học thế kỷ 20 đã xác minh vấn đề này qua cuộc tranh luận thế kỷ giữa hai nhà khoa học hàng đầu thế giới, là Niels Bohr và Albert Einstein mà tôi sẽ đề cập ở phần sau.

Uẩn đầu tiên cũng quan trọng nhất là Sắc (vật chất).

Nó quan trọng tới nỗi có rất nhiều người, từ triết học gia cho tới khoa học gia, xây dựng cả một chủ nghĩa duy vật (materialism), họ cho rằng nền tảng duy nhất của vũ trụ vạn vậtvật chất. Vật chất tiến hóa từ vô cơ (inorganic) cho tới hữu cơ (organic). Từ hữu cơ cho tới sinh vật đơn bào, sinh vật cấp thấp, sinh vật cấp cao, rồi con người có bộ não, từ bộ não mới phát sinh ý thức.

Tuy nhiên sinh vật tiến hóa luận của Darwin đã bị phản bác rất nhiều trong thế kỷ 20, sang thế kỷ 21 hầu như nó đã bị bác bỏ hoàn toàn bởi vì có nhiều bằng chứng khảo cổ cho thấy không có tiến hóa. Hóa thạch con dế cách nay 125 triệu năm cũng giống hệt con dế hiện nay. Theo thuyết tiến hóa thì các giống loài phải ngày càng nhiều vì nó phân nhánh, nhưng thực tế khảo cổ cho thấy các giống loài đồng loạt xuất hiện rất nhiều trong kỷ Cambri, rồi sau đó ít dần, một số bị tuyệt chủng, số còn lại cũng không hề có tiến hóa gì. Các mắt xích hóa thạch để chứng minh sự tiến hóa từ con vật tới con người không có đầy đủ, nếu có cũng không chứng minh được một cách rõ ràngliên tục.

Ngay cả vật lý học cũng lâm vào khủng hoảng trầm trọng, bởi vì khi người ta đi tìm hạt vật chất đầu tiên thì không thể khẳng định được. Mô hình chuẩn của vật lý hạt (Standard model of particle physics) nêu ra 17 hạt cơ bản, nhưng chúng đều là hạt ảo, không thể độc lập tồn tại, chúng là trừu tượng khi bị tách riêng, cô lập. Tất cả chúng đều có thể quy về lượng tử nhưng lượng tử là một hạt trừu tượng tuy có công dụng nhưng không có thực thể. Điều đó chứng tỏ công dụngảo hóa, là tưởng tượng chứ không phải thật.

Niels Bohr (1885-1962, nhà vật lý người Đan Mạch, giải Nobel vật lý 1922) nói “Isolated material particles are abstractions” (Hạt vật chất cơ bản cô lập là những sự vật trừu tượng- tức không phải vật thật).

Có những thí nghiệm khoa học chứng minh rằng vật chất không độc lập tồn tại, nó là một sự tưởng tượng của tâm thức, chỉ hiện hữu trong tâm thức, bản thân vật chất chỉ là sóng vô hình không phải vật chất, nó là tiềm thể, là một cấu trúc ảo, từ những hạt ảo mà thành. Điều này thì trong kinh điển Phật giáo có nói rất rõ. Kinh Hoa Nghiêm nói : nhất thiết duy tâm tạo一切唯心造
Đây là thí nghiệm nổi tiếng về hai khe hở :

Double Slit Experiment – Thí Ngiệm Hai Khe Hở – Phụ đề Việt ngữ

Dưới đây là cuộc tranh luận thế kỷ giữa hai nhà khoa học hàng đầu thế giới là Niels Bohr và Albert Einstein. Bohr nói rằng các đặc trưng của hạt photon như vị trí, khối lượng, điện tích, số spin không có sẵn, không xác định cho tới khi có người quan sát đo đạc nó. Còn Einstein thì cho rằng hạt photon lúc nào cũng có sẵn đặc trưng, những đặc trưng đó lúc nào cũng xác định dù có ai quan sát đo đạc hay không. Kết quả năm 1982 tại Paris, Alain Aspect đã làm thí nghiệm chuẩn xác, nó chứng minh rằng Bohr đúng, Einstein sai. Điều đó chứng tỏ hạt photon là do tâm thức tạo ra. Chi tiết xin xem trong video sau :

Tranh Luận Giữa Bohr Và Einstein Về Cơ Học Lượng Tử

Sắc tức thị Không thì những Uẩn còn lại cũng đều là không

Thân thể tứ đại bằng vật chất của chúng ta đã là không, thì cảm giác của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể cũng như cảm giác tổng hợp của ý thức cũng chỉ là tưởng tượng. Đều đó có nghĩa Thọ cũng là Tưởng (tưởng tượng). Hành (chuyển động) chỉ là điều kiện để phát sinh ảo hóa, nếu không có chuyển động thì cuốn phim chỉ là những tấm ảnh bất động. Chính sự chuyển động tạo ra thế giới sống động. Cuối cùng Thức là sự nhận biết, sự phân biệt để tạo ra sự tưởng tượng phong phú đa dạng. Chức năng chính của Thức là phân biệt, phân biệt từ những sai biệt nhỏ nhặt nhất như thứ tự, đến những sai biệt về số lượng, về vị trí trong không gianthời gian. Vũ trụ vạn vật là do Thức tạo ra, bởi vì nếu không phân biệt thì vũ trụ chỉ là tánh không trống rỗng không có gì cả. Thế giới hiện hữu là do tưởng tượng, tưởng tượng muốn cho phong phúthuyết phục phải dựa trên lượng tử, lượng tử là trừu tượng, chỉ là sóng tiềm năng không phải vật chất, nhưng qua sự hoạt động đồng bộ của 8 thức thì lượng tử biến thành thế giới muôn màu muôn vẻ trong đó có thế gian, thiên đườngđịa ngục. Tất cả chỉ là tưởng tượng nhưng chúng sinh bị kẹt cứng trong tưởng tượng đó, cảm thấy sướng hay khổ là do thói quen tưởng tượng của chúng.

Có những kẻ đánh bom liều chết tự nguyện, chúng cảm thấy như vậy là sướng thích, là hết mình phục vụ cho niềm tin của mình về một chủ nghĩa Hồi giáo thống trị thế giới. Có những tu sĩ Tây Tạng tự thiêu, tuy đau đớn thể xác nhưng sướng thích về tinh thần, họ cảm thấy như vậy là hết mình phục vụ tổ quốc dân tộc chứ không nghĩ đó là sự bạo hành đối với bản thân, sự vi phạm giới luật cấm sát sinh dù là tự sát. Có những quan tham vơ vét của công rồi bị kết án tử hình, nhưng thâm tâm vẫn bằng lòng chấp nhận vì đã tẩu tán được một số của cải cho thân nhân của mình.

Có những ca sĩ, diễn viên, nổi tiếng, giàu có, tự hào vì thành công và khối tài sản to lớn của mình, cho rằng như vậy là sướng, là tài năng của mình, chứ không nghĩ rằng đó chỉ là phước báo, hết phước thì tài sản tiêu tan chẳng mấy hồi. Có những người lao động nghèo khổ, kiếm không ra tiền, sống đói rách, đã vậy còn bị bệnh tật nan y và tai nạn, bèn cho rằng cuộc đời mình là quá khổ, cũng không hiểu rằng đó là nghiệp chướng của mình.

Những cảnh đời sướng khổ, chuyện yêu đương, con cái, kiếm tiền, của hàng tỉ người trên trái đất còn được dựng lên thành hàng vạn phim ảnh, chiếu suốt ngày đêm trên các đài truyền hình tại khắp các quốc gia. Tức là thế gian vốn đã là tưởng tượng, người ta lại tưởng tượng thêm thành tưởng tượng cấp hai của phim ảnh phẳng, bây giờ người ta lại dựng thêm phim 3D thành ảnh nổi 3 chiều có phụ thêm một số cảm giác như gió, nước, rung lắc, đó là tưởng tượng cấp ba.

Tóm lại, thế gian điên đảo mộng tưởng, mọi người sống với sự sướng khổ tưởng tượng của mình mà không biết. Nhiều kẻ cảm thấy quá khổ, quá tuyệt vọng, bèn tự tử. Còn có những kẻ khác cảm thấy đời sống vật chất của mình quá đầy đủ đến mức thừa mứa, đâm ra nhàm chán, không biết làm sao cho có hứng thú, bèn chạy theo những cuộc đua tranh về quyền lực, làm sao cho thành công trong kinh doanh, giàu có nhất thế giới, có quyền lực bậc nhất, chi phối cả chính quyền. Khi đạt được rồi cũng chán, bèn đem tiền lập quỹ từ thiện.

Đức Phật đã giác ngộ, giác ngộ là tánh biết vô sinh pháp nhẫn, còn có tên gọi là chánh biến tri, biết hết mọi điều ẩn kín của thế giới khắp không gian thời gian, biết rõ nguồn gốc mọi sướng khổ của chúng sinh đều chỉ là tưởng tượng vô căn cứ, không có chút gì là thực chất, nên nói rằng ngũ uẩn giai không, đó là một lối thoát cho tất cả mọi bế tắc của con người, nó có khả năng giải quyết được tất cả mọi khổ ách.

Hôm nay là ngày đầu năm mới dương lịch 2016, và nhân năm mới âm lịch Bính Thân sắp tới, tôi xin mượn một bài ca để nhắc lại lời Đức Phật nói trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng là nội dung ý nghĩa của bài này.

Bài Ca Tánh Không – Huệ Phổ Pháp Sư – Việt dịch

Xin chúc tất cả mọi người rửa sạch tất cả mọi phiền não, tự do tự tại.

Truyền Bình
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7724)
Tỳ-bà-thi Phật là danh hiệu phiên âm từ Pāli ngữ Vipassī, Sanskrit: Vipaśyin; có nghĩa là cái nhìn đặc biệt, cái nhìn sâu sắc và thanh tịnh; cách nhìn này xuyên suốt thấu đáo mọi vấn đề.
(Xem: 22523)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 8926)
Trong lịch sử tôn giáo của nhân loại rất hiếm có bậc lãnh đạo tinh thần - qua lời nói, hành động và khả năng thiện xảo - làm tăng động lực và tạo một chuyển hướng mới cho tôn giáo, Đức Phật là một khuôn mặt hiếm hoi trong các bậc này.
(Xem: 10158)
Cho đến nay, người ta vẫn chưa biết chính xác bản kinh Pháp Hoa này được thiết lập khi nào, ở đâu và được ghi lại bằng ngôn ngữ nào trước hết.
(Xem: 16862)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 8295)
Việc nghiên cứu Kinh Lăng-già, đã được ngài D.T.Suzuki thực hiện, qua tác phẩm “rất thẩm quyền”: Studies in the Lankavatara Sutra – nghiên cứu về kinh Lăng-già.
(Xem: 19114)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 8019)
Chính pháp trụ một nghìn năm, tượng pháp trụ một nghìn năm, mạt pháp trụ một vạn năm. Thuyết này trích trong Kì-hoàn tinh xá bi.
(Xem: 6971)
Nhị đếtục đếchân đế, còn gọi là chân lý tương đốichân lý tuyệt đối hay chân lý thế gianchân lý xuất thế gian.
(Xem: 8240)
Phật giáocách sống dựa trên việc rèn luyện tâm. Mục đích cao nhất là để đi trên con đường giải thoát khỏi đau khổ, và đạt đến Niết Bàn,
(Xem: 8580)
Trong 2 giai tầng của việc phát triển tâm giác ngộ nguyện vọng và dấn thân, chỉ với việc dấn thân chúng ta mới thọ giới Bồ tát.
(Xem: 9684)
Trích từ quyển How to See Yourself as You Really Are của Đức Đạt Lai Lạt Ma - Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 9549)
Thực chứng giáo lý duyên khởi, người thông tuệ hoàn toàn không vướng vào những quan điểm cực đoan...
(Xem: 7737)
Công cuộc hiện đại hóa giáo dục đại họcTrung Quốc bắt đầu từ việc chính phủ Mãn Thanh xây dựng “Kinh Sư Đại Học Đường” năm 1910 chiêu sinh sinh viên chính quy đầu tiên.
(Xem: 8306)
Đức Phật nói, nếu giữ tâm vững như hòn đảo trước phong ba bão táp của cuộc đời thì chúng ta sẽ có được chất liệu an vui, an vui về thái độ, tinh thần...
(Xem: 8310)
Phật dạy thân người do tứ đại gồm bốn chất đất-nước-gió-lửa hòa hợp lại hình thành; đất với gió lại không thuận với nhau, gió thổi mạnh thì đất rung rinh..
(Xem: 7951)
Phật dạy trong mỗi người chúng ta đều có phần tâm linh sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết không lầm lẫn, sự vật như thế nào thì biết rõ như thế đó;
(Xem: 8456)
Thực tại nền tảng của thế giới Hoa Nghiêm là Phật Tỳ-lô-giá-na (Vairocana). Đây là Pháp thân của Đức Phật Thích-ca và cũng là Pháp thân của tất cả chư Phật.
(Xem: 9988)
Dựa trên giả định các hoạt động của Tâm tạo ra những cấu trúc não bộ mới (Hebb 1949) cho biết ý tưởng, tình cảm có thể để lại dấu ấn
(Xem: 9011)
Là giai đoạn duy nhất trong kinh nghiệm cận tử liên quan đến việc nhận thức thế giới mang tính vật lý hơn là tính tâm linh...GIDEON LITCHFIELD
(Xem: 8804)
Khi Mâu Tử, một tri thức Tàu, tị nạn tại Giao Châu và viết trong Lý Hoặc Luận vào cuối thế kỷ thứ 2 sau tây lịch rằng, “Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất,”
(Xem: 8049)
Nếu quý vị không có tuệ giác trong cung cách chính mình và mọi thứ thật sự là, quý vị không thể nhận ra và xa lánh những chướng ngại...
(Xem: 9966)
Tâm ta là vật quan trọng nhất. Mọi sự đến từ tâm, vì thế tất cả những gì không ai ưa thích mà giờ đây ta đối mặt cũng đến từ tâm.
(Xem: 9875)
Những giác quan của chúng ta góp phần cho sự si mê của chúng ta. Đối với những tính năng của chúng ta về thấy, nghe, ngửi, nếm, và cảm giác, những đối tượng dường như tồn tại trong tự bản chất của nó.
(Xem: 9372)
Chết là một bộ phận trong sự sống của chúng ta. Dĩ nhiên, theo quan điểm của Phật Giáo, thân thể này trong một ý nghĩa nào đó là một kẻ thù.
(Xem: 10262)
Bất cứ ai quan tâm đến lịch sử Đức Phật đều muốn biết về bữa ăn cuối cùng của Ngài do ông Thuần Đà (Cunda) cúng dường,
(Xem: 14587)
Là vị Bồ Tát tiêu biểu cho Trí Tuệ, Bồ Tát Văn Thù thường được miêu tả với dáng dấp trẻ trung ngồi kiết già trên một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen.
(Xem: 9136)
Đức Phật là một bậc đạo sư thực tiễn. Mục tiêu duy nhất của Ngài là giải thích tất cả chi tiết trong vấn đề của khổ là thực tế phổ biến của cuộc đời.
(Xem: 8628)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 9779)
Khi mới thành đạo, đức Phật đã nói: “Lạ thay tất cả chúng sanh đều có đức tính trí huệ của Như Lai mà bị vô minh che lấp nên không phát hiện ra được”.
(Xem: 15796)
Ở đời tuổi tác là một nhân tố quan trọng tác thành nên vị trí của cá nhân trong cộng đồng. Trong đạo cũng vậy, những bậc truởng lão, thâm niên lại càng được kính nể và tôn trọng hơn.
(Xem: 8205)
Bảy yếu tố khiến Tăng đoàn hưng thịnh hay còn gọi là bảy pháp bất thối được đề cập trong bài kinh Đại bát Niết bàn, gồm: Có Tín tâm, có Tàm, có Quý, Đa văn, Tinh tấn, Chánh niệmTrí tuệ.
(Xem: 11134)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh.
(Xem: 11796)
Đạo đức học là một bộ phận của triết học nhằm dựa vào lý tríthiết lập một sự phân biệt giữa thiện và ác, giữa điều được làm và điều bị cấm làm.
(Xem: 8883)
Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.
(Xem: 9113)
Điều cần bảo vệ chính là cái tâm của người con Phật, biết kiên trì thực hành những lời Phật dạy để đem lại an lạc cho chính mình và những người chung quanh
(Xem: 12038)
Chữ “giác ngộ” trong Đạo Phật, tiếng Pali và Sanskrit đều là “Bodhi”. Tiếng Anh là “enlightenment” hay “awakening”
(Xem: 9445)
Chúng tôi đã thuyết giảng về những cảm xúc đau khổ và các tai hại mà chúng sẽ gây ra cho việc hành trì tu tập của chúng ta.
(Xem: 21758)
Chúng ta đã biết đời là vô thường đau khổ, nhưng chúng ta còn cố chấp cái ngã, cái ta, cố bám víu vào cái của ta, thì chúng ta không thể trừ bỏ được kiêu mạn,
(Xem: 15304)
Người Phật tử có trí và hiểu đạo chỉ quan tâm khiến cho mỗi đời sống là một bước tiến trên con đường tiến bộ tâm linh không ngừng, dẫn tới sự giải thoátgiác ngộ tối hậu...
(Xem: 8680)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộVãng sanh khác nhau thế nào?
(Xem: 9384)
Khi đã biết nghiệp báo nhân quả không thể tránh, khủng khiếp như thế, chúng ta phải cố gắng tránh làm ác từ ý nghĩ, lời nói đến việc làm
(Xem: 7828)
Khảo sát hiện tượng "hội nhập văn hóa" tại một trung tâm Phật giáovị trí quan trọng vào hàng nhất nhì ở thời Lý-Trần như chùa Quỳnh Lâm...
(Xem: 9417)
Ta-bà là chu kỳ của sự hiện hữu (sự sinh, sự sống và cái chết) chi phối bởi nghiệp (karma). Đấy là chiếc bánh xe của khổ đau hình thành từ các hiện tượng của sự hiện hữu
(Xem: 9463)
Chúng ta sợ đủ thứ: sợ chết, sợ khốn khổ, sợ bị chê bai chỉ trích, và trên tất cả, hình như chúng ta rất sợ sự thật.
(Xem: 10445)
Con người sanh ra trên cõi đời này đã mang theo nghiệp nhân của đời trước, lúc lớn lên lại gây tạo thêm nghiệp mới.
(Xem: 8881)
Tất cả việc làm của Phật giáo đều tập chú vào lợi ích cho chúng sanh. Chúng sanh là đối tượng duy nhất của Phật giáo.
(Xem: 14923)
Mặc dù các tôn giáo nhất là Phật giáo đều nhấn mạnh đến vấn đề Nhân Quả - Nghiệp báo, song Luật Nhân quả không phải là của riêng một tôn giáo nào, nó là một luật của tự nhiên
(Xem: 8043)
“Sống Tỉnh Giác” là sống tỉnh chứ không còn ngủ mê nữa. Đây là đi vào thực hành chứ không phải là học, hiểu hay lý luận suông.
(Xem: 8378)
Sau khi trở thành phật tử, có tam qui, ngũ giới rồi, người phật tử phải sống ra sao để an lạc hạnh phúc?
(Xem: 8442)
Tất cả chúng ta đều có duyên lớn được gặp Phật pháp, được học Phật, được có người chỉ đường, có bản đồ sẵn hết rồi, chỉ còn một việc là bước đi để trở về.
(Xem: 8861)
‘Tâm’ là chữ thường xuyên xuất hiện với người Phật tử mỗi khi nói đến tu tập . Thật vậy, nào là ‘Tu tâm’ , ‘một niệm ở tâm ta’ , nào là ‘giữ tâm ý trong sạch ’ , ‘
(Xem: 9157)
Chánh Giáo (Tam Bồ Đề_ Sambhodhi) cùng Giải Thoátmục đích chung của Phật và các đệ tử Thanh Văn...
(Xem: 8659)
Cầu xin mà có hiệu qủa, chẳng có ai không cầu, cứ ngồi đó mà cầu nguyện là tự có tất cả, chẳng phải làm việc vất vả, cần gì phải học hành cực nhọc....
(Xem: 8225)
Phật Giáo Ấn ĐộTây Tạng phân loại và hệ thống hóa toàn bộ giáo huấn của Đức Phật thành ba chu kỳ khác nhau gọi là "ba vòng quay của bánh xe Đạo Pháp"
(Xem: 7770)
Con Đường Của Bụt là chủ đề của khoá tu An Cư Kiết Đông năm 2008 - 2009. Đây là con đường Bụt đã đi, và chúng ta đang đi theo sự hướng dẫn của Ngài.
(Xem: 9942)
con người, chúng ta có khuynh hướng bám víu vào đời sống của chính mình. Nhà Phật gọi đó là chấp thủ.
(Xem: 7956)
Con người luôn sống trong sợ hãi từ hiện tại cho đến vị lai, là do chính mình gây tạo nên bằng những hành động, lời nóiý nghĩ bất thiện
(Xem: 7896)
Kinh điển thường ví giận dữ như một cơn điên. Người điên cuồng không kiềm chế được ý thức nên hành vi, cử chỉ, việc làm gây thương tổn bản thân và người khác.
(Xem: 6996)
Trồng nhân thiện nhất định được quả thiện, tạo ác nghiệp nhất định chiêu quả khổ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant