Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngũ Uẩn Giai Không

15 Tháng Năm 201619:00(Xem: 8527)
Ngũ Uẩn Giai Không
NGŨ UẨN GIAI KHÔNG

Truyền Bình

Ngũ Uẩn Giai Không

Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không. Trong bốn từ này có ba từ dễ hiểu, không cần giải thích, mọi người đều có thể mường tượng ý nghĩa của nhóm chữ, chỉ có từ Uẩn là khá khó hiểu.

Ngũ uẩn giai không 五蘊皆空 nghĩa là năm uẩn đều không có thật. Chữ uẩn 蘊 (skandha) còn gọi là ấm 陰 Uẩn là nhóm hay tập hợp hoặc tích hợp. Ngũ uẩn giai không 五蘊皆空 nghĩa là năm uẩn đều không có thật. Chữ uẩn 蘊 (skandha) còn gọi là ấm 陰 Uẩn là nhóm hay tập hợp hoặc tích hợp. Ngũ uẩn bao gồm : Sắc (vật chất, matter, material); Thọ (cảm giác, perception); Tưởng (tưởng tượng, imagination) ; Hành (chuyển động, motion); Thức (nhận thức, phân biệt, conciousness, alaya, discrimination).

Chữ uẩn mang hàm ý tích hợp, là tập hợp của nhiều phần tử để tạo ra một hiện tượng ảo hóa. Bởi vì hiện tượng ảo hóa đó kéo dài và con người không có cách nào để phát hiện tính cách giả tạo của hiện tượng nên lầm tưởng là thật, và từ lầm tưởng đó mà sướng khổ một cách vô căn cứ. Tất cả mọi sướng khổ đều là vô căn cứ bởi vì nó dựa trên tưởng tượng. Tưởng tượng này kinh điển Phật giáo gọi là thế lưu bố tưởng tức là tưởng tượng đã phổ biến qua nhiều đời ở thế gian. Nguyên lý của vấn đề này nằm ở chỗ kinh điển gọi là tất cả các pháp đều không có tự tính, tất cả mọi tính chất của pháp là do tưởng tượng gán ghép của con người. Dễ thấy nhất là ngôn ngữ, từ ngữ của của bất cứ ngôn ngữ nào đều không có ý nghĩa, mọi ý nghĩa đều là do con người gán ghép cho từ ngữ. Tương tự như vậy, tất cả mọi vật trong vũ trụ đều không có thực chất, mọi tính chất đều do chúng sinh gán ghép cho vật. Đó cũng chính là ý nghĩa của ngũ uẩn giai không. Khoa học thế kỷ 20 đã xác minh vấn đề này qua cuộc tranh luận thế kỷ giữa hai nhà khoa học hàng đầu thế giới, là Niels Bohr và Albert Einstein mà tôi sẽ đề cập ở phần sau.

Uẩn đầu tiên cũng quan trọng nhất là Sắc (vật chất).

Nó quan trọng tới nỗi có rất nhiều người, từ triết học gia cho tới khoa học gia, xây dựng cả một chủ nghĩa duy vật (materialism), họ cho rằng nền tảng duy nhất của vũ trụ vạn vậtvật chất. Vật chất tiến hóa từ vô cơ (inorganic) cho tới hữu cơ (organic). Từ hữu cơ cho tới sinh vật đơn bào, sinh vật cấp thấp, sinh vật cấp cao, rồi con người có bộ não, từ bộ não mới phát sinh ý thức.

Tuy nhiên sinh vật tiến hóa luận của Darwin đã bị phản bác rất nhiều trong thế kỷ 20, sang thế kỷ 21 hầu như nó đã bị bác bỏ hoàn toàn bởi vì có nhiều bằng chứng khảo cổ cho thấy không có tiến hóa. Hóa thạch con dế cách nay 125 triệu năm cũng giống hệt con dế hiện nay. Theo thuyết tiến hóa thì các giống loài phải ngày càng nhiều vì nó phân nhánh, nhưng thực tế khảo cổ cho thấy các giống loài đồng loạt xuất hiện rất nhiều trong kỷ Cambri, rồi sau đó ít dần, một số bị tuyệt chủng, số còn lại cũng không hề có tiến hóa gì. Các mắt xích hóa thạch để chứng minh sự tiến hóa từ con vật tới con người không có đầy đủ, nếu có cũng không chứng minh được một cách rõ ràngliên tục.

Ngay cả vật lý học cũng lâm vào khủng hoảng trầm trọng, bởi vì khi người ta đi tìm hạt vật chất đầu tiên thì không thể khẳng định được. Mô hình chuẩn của vật lý hạt (Standard model of particle physics) nêu ra 17 hạt cơ bản, nhưng chúng đều là hạt ảo, không thể độc lập tồn tại, chúng là trừu tượng khi bị tách riêng, cô lập. Tất cả chúng đều có thể quy về lượng tử nhưng lượng tử là một hạt trừu tượng tuy có công dụng nhưng không có thực thể. Điều đó chứng tỏ công dụngảo hóa, là tưởng tượng chứ không phải thật.

Niels Bohr (1885-1962, nhà vật lý người Đan Mạch, giải Nobel vật lý 1922) nói “Isolated material particles are abstractions” (Hạt vật chất cơ bản cô lập là những sự vật trừu tượng- tức không phải vật thật).

Có những thí nghiệm khoa học chứng minh rằng vật chất không độc lập tồn tại, nó là một sự tưởng tượng của tâm thức, chỉ hiện hữu trong tâm thức, bản thân vật chất chỉ là sóng vô hình không phải vật chất, nó là tiềm thể, là một cấu trúc ảo, từ những hạt ảo mà thành. Điều này thì trong kinh điển Phật giáo có nói rất rõ. Kinh Hoa Nghiêm nói : nhất thiết duy tâm tạo一切唯心造
Đây là thí nghiệm nổi tiếng về hai khe hở :

Double Slit Experiment – Thí Ngiệm Hai Khe Hở – Phụ đề Việt ngữ

Dưới đây là cuộc tranh luận thế kỷ giữa hai nhà khoa học hàng đầu thế giới là Niels Bohr và Albert Einstein. Bohr nói rằng các đặc trưng của hạt photon như vị trí, khối lượng, điện tích, số spin không có sẵn, không xác định cho tới khi có người quan sát đo đạc nó. Còn Einstein thì cho rằng hạt photon lúc nào cũng có sẵn đặc trưng, những đặc trưng đó lúc nào cũng xác định dù có ai quan sát đo đạc hay không. Kết quả năm 1982 tại Paris, Alain Aspect đã làm thí nghiệm chuẩn xác, nó chứng minh rằng Bohr đúng, Einstein sai. Điều đó chứng tỏ hạt photon là do tâm thức tạo ra. Chi tiết xin xem trong video sau :

Tranh Luận Giữa Bohr Và Einstein Về Cơ Học Lượng Tử

Sắc tức thị Không thì những Uẩn còn lại cũng đều là không

Thân thể tứ đại bằng vật chất của chúng ta đã là không, thì cảm giác của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể cũng như cảm giác tổng hợp của ý thức cũng chỉ là tưởng tượng. Đều đó có nghĩa Thọ cũng là Tưởng (tưởng tượng). Hành (chuyển động) chỉ là điều kiện để phát sinh ảo hóa, nếu không có chuyển động thì cuốn phim chỉ là những tấm ảnh bất động. Chính sự chuyển động tạo ra thế giới sống động. Cuối cùng Thức là sự nhận biết, sự phân biệt để tạo ra sự tưởng tượng phong phú đa dạng. Chức năng chính của Thức là phân biệt, phân biệt từ những sai biệt nhỏ nhặt nhất như thứ tự, đến những sai biệt về số lượng, về vị trí trong không gianthời gian. Vũ trụ vạn vật là do Thức tạo ra, bởi vì nếu không phân biệt thì vũ trụ chỉ là tánh không trống rỗng không có gì cả. Thế giới hiện hữu là do tưởng tượng, tưởng tượng muốn cho phong phúthuyết phục phải dựa trên lượng tử, lượng tử là trừu tượng, chỉ là sóng tiềm năng không phải vật chất, nhưng qua sự hoạt động đồng bộ của 8 thức thì lượng tử biến thành thế giới muôn màu muôn vẻ trong đó có thế gian, thiên đườngđịa ngục. Tất cả chỉ là tưởng tượng nhưng chúng sinh bị kẹt cứng trong tưởng tượng đó, cảm thấy sướng hay khổ là do thói quen tưởng tượng của chúng.

Có những kẻ đánh bom liều chết tự nguyện, chúng cảm thấy như vậy là sướng thích, là hết mình phục vụ cho niềm tin của mình về một chủ nghĩa Hồi giáo thống trị thế giới. Có những tu sĩ Tây Tạng tự thiêu, tuy đau đớn thể xác nhưng sướng thích về tinh thần, họ cảm thấy như vậy là hết mình phục vụ tổ quốc dân tộc chứ không nghĩ đó là sự bạo hành đối với bản thân, sự vi phạm giới luật cấm sát sinh dù là tự sát. Có những quan tham vơ vét của công rồi bị kết án tử hình, nhưng thâm tâm vẫn bằng lòng chấp nhận vì đã tẩu tán được một số của cải cho thân nhân của mình.

Có những ca sĩ, diễn viên, nổi tiếng, giàu có, tự hào vì thành công và khối tài sản to lớn của mình, cho rằng như vậy là sướng, là tài năng của mình, chứ không nghĩ rằng đó chỉ là phước báo, hết phước thì tài sản tiêu tan chẳng mấy hồi. Có những người lao động nghèo khổ, kiếm không ra tiền, sống đói rách, đã vậy còn bị bệnh tật nan y và tai nạn, bèn cho rằng cuộc đời mình là quá khổ, cũng không hiểu rằng đó là nghiệp chướng của mình.

Những cảnh đời sướng khổ, chuyện yêu đương, con cái, kiếm tiền, của hàng tỉ người trên trái đất còn được dựng lên thành hàng vạn phim ảnh, chiếu suốt ngày đêm trên các đài truyền hình tại khắp các quốc gia. Tức là thế gian vốn đã là tưởng tượng, người ta lại tưởng tượng thêm thành tưởng tượng cấp hai của phim ảnh phẳng, bây giờ người ta lại dựng thêm phim 3D thành ảnh nổi 3 chiều có phụ thêm một số cảm giác như gió, nước, rung lắc, đó là tưởng tượng cấp ba.

Tóm lại, thế gian điên đảo mộng tưởng, mọi người sống với sự sướng khổ tưởng tượng của mình mà không biết. Nhiều kẻ cảm thấy quá khổ, quá tuyệt vọng, bèn tự tử. Còn có những kẻ khác cảm thấy đời sống vật chất của mình quá đầy đủ đến mức thừa mứa, đâm ra nhàm chán, không biết làm sao cho có hứng thú, bèn chạy theo những cuộc đua tranh về quyền lực, làm sao cho thành công trong kinh doanh, giàu có nhất thế giới, có quyền lực bậc nhất, chi phối cả chính quyền. Khi đạt được rồi cũng chán, bèn đem tiền lập quỹ từ thiện.

Đức Phật đã giác ngộ, giác ngộ là tánh biết vô sinh pháp nhẫn, còn có tên gọi là chánh biến tri, biết hết mọi điều ẩn kín của thế giới khắp không gian thời gian, biết rõ nguồn gốc mọi sướng khổ của chúng sinh đều chỉ là tưởng tượng vô căn cứ, không có chút gì là thực chất, nên nói rằng ngũ uẩn giai không, đó là một lối thoát cho tất cả mọi bế tắc của con người, nó có khả năng giải quyết được tất cả mọi khổ ách.

Hôm nay là ngày đầu năm mới dương lịch 2016, và nhân năm mới âm lịch Bính Thân sắp tới, tôi xin mượn một bài ca để nhắc lại lời Đức Phật nói trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng là nội dung ý nghĩa của bài này.

Bài Ca Tánh Không – Huệ Phổ Pháp Sư – Việt dịch

Xin chúc tất cả mọi người rửa sạch tất cả mọi phiền não, tự do tự tại.

Truyền Bình
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10482)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6084)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9345)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6400)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 5968)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7480)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7302)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5178)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8054)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5914)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9574)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7373)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7368)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6202)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5298)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5847)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5645)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3953)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5686)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4074)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7510)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5710)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 21874)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5592)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 7036)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 5004)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6431)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5791)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 4999)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7044)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6034)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5556)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5868)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 5990)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6807)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6424)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6069)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6458)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6140)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6340)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5584)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6890)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4555)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7769)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 6009)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7262)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7691)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5486)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5137)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5643)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5506)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5513)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 5009)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4253)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 6032)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5623)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6277)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8523)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5229)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant