Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bốn Cơ Hội Hiếm Có - Câu Chuyện Về Vua Rồng Erakapatta

16 Tháng Năm 201604:43(Xem: 7735)
Bốn Cơ Hội Hiếm Có - Câu Chuyện Về Vua Rồng Erakapatta

BỐN CƠ HỘI HIẾM CÓ
Câu Chuyện Về Vua Rồng Erakapatta,
Kệ 182 - Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú

Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero -
Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến - Hình Vẽ: P. Wickramanayaka  
Source-Nguồn: www.buddhanet.net

(Four Rare Opportunities - The Story Of Erakapatta The Nāga King, Verse 182 - Treasury Of Truth,
Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)

Bốn Cơ Hội Hiếm Có - Câu Chuyện Về Vua Rồng Erakapatta


BÀI KỆ 182:

182. Kiccho manussapaṭilābho
kicchaṃ maccāna’jīvitaṃ
kicchaṃ saddhammasavanaṃ
kiccho Buddhānaṃ uppādo. (14:4)

182. Điều khó đạt được, là sinh ra làm người
Điều khó khăn của kiếp người, là sinh tử,
Điều khó làm, là gặp được Phật Pháp,
Điều hiếm thấy, là sự xuất hiện của một vị Phật.

Một thời Đức Phật cư trú gần Bārānasī(Ba La Nại), ngài đã nói bài kệ nầy, về Vua Rồng Erakapatta.

Ngày xửa ngày xưa, có một vị Vua Rồng tên là Erakapatta. Một trong những kiếp trước của ông là một nhà sư đã đi tu trong một thời gian rất lâu, vào thời Đức Phật Kassapa. Trong kiếp nhà sư nầy, ông đã lo lắng bởi vì ông vi phạm một giới nhỏ, nên ông đã tái sinh là một vị Vua Rồng. Trong lúc là một Vua Rồng, ông chờ đợi sự xuất hiện của một vị Phật. Erakapatta có một cô con gái rất xinh đẹp, và ông xử dụng cô như là một phương tiện để tìm kiếm Đức Phật. Ông đã cho mọi người biết rằng, bất cứ ai có thể trả lời đúng câu hỏi của công chúa, thì người đó có thể lấy công chúa làm vợ. Mỗi tháng hai lần, cô con gái của Erakapatta ra nhảy múa, và hát lên những câu hỏi trước công chúng. Nhiều chàng trai theo đuổi cô, muốn lấy cô làm vợ, nên đến trả lời các câu hỏi của cô, tuy nhiên, chẳng có ai cho câu trả lời đúng.

Một ngày kia, dưới tầm nhìn của Đức Phật, ngài trông thấy một thanh niên trẻ tên là Uttara. Đức Phật cũng biết rằng thanh niên nầy sẽ đạt Quả Nhập Lưu (Tu Đà Hoàn), qua sự kết nối với các câu hỏi của con gái Vua Rồng Erakapatta. Vào lúc đó, thanh niên trẻ nầy đang trên đường đi đến gặp cô con gái của Erakapatta. Đức Phật liền dừng anh ta lại, và ngài dạy anh cách trả lời các câu hỏi. Trong khi Đức Phật dạy bảo anh, Uttara đã đạt được Quả Nhập Lưu. Khi anh đã đạt được Quả Nhập Lưu rồi, anh không còn mong muốn lấy cô công chúa con của Vua Rồng làm vợ nữa. Tuy nhiên, Uttara vẫn muốn đi đến trả lời các câu hỏi của cô công chúa, với mục đích là giúp ích cho những chúng sanh khác.

Bốn câu hỏi đầu tiên là:

(1) Người cai trị là ai? (2) Người sống hoàn-toàn không-có đạo-đức, có được gọi là một người cai trị không? (3) Người cai trị nào mà sống có đạo-đức? (4) Loại người nào bị gọi là người ngu xuẩn?

Bốn câu trả lời cho các câu hỏi trên là:

(1) Người cai trị là người kiểm soát được sáu giác quan. (2) Người sống hoàn-toàn không-có đạo đức thì không được gọi là người cai trị; người mà không-còn lòng tham muốn được gọi là người cai trị (3) Người cai trị nào mà không còn lòng tham muốn, chính là người sống có đạo đức (4) Người đi tìm kiếm các thú vui nhục dục là một người ngu xuẩn.

Sau khi cô công chúa con Vua Rồng Erakapatta nghe được các câu trả lời chính xác như trên, cô công chúa bắt đầu hát tiếp các câu hỏi diễn tả các ham-muốn nhục-dục như là các trận lũ-lụt (oghas), câu hỏi về kiếp sống mới (tái sinh), về các giáo lý sai lầm và về sự thiếu hiểu biết, và phương-cách để giải-quyết các vấn-đề nầy. Uttara liền trả lời các câu hỏi nầy, giống như lời Đức Phật đã giảng dạy. Khi Erakapatta nghe các câu trả lời, ông biết rằng có một vị Phật đã xuất hiện trên thế gian nầy. Vì vậy, ông nhờ Uttara dẫn ông đến gặp Đức Phật. Khi gặp Đức Phật, Erakapatta kể chuyện là trong thời Đức Phật Kassapa, ông là một nhà sư, và khi ông du hành trên thuyền, ông vô tình làm một ngọn cỏ bị cắt đứt, ông đã lo lắng về việc vi phạm một giới nhỏ nầy, rồi ông đã không xin sám hối theo giới luật quy định, vì thế mà cuối cùng ông đã tái sinh làm một Vua Rồng. Sau khi nghe ông kể chuyện xong, Đức Phật nói với ông rằng, thật là khó khăn để được sinh ra làm người, và thật là khó khăn để sinh ra trong thời có các vị Phật, và thật là khó khăn để nghe được Phật Pháp

BÀI KỆ 182, CHUYỂN NGỮ TỪ TIẾNG PALI:

manussa paṭilābho kiccho maccāna jīvitaṃ kicchaṃ saddhamma savanaṃ kicchaṃ Buddhānaṃ uppādo kiccho

manussa paṭilābho: được làm người; kiccho: (là điều) khó khăn; maccāna: (vòng sinh tử) của con người; jīvitaṃ: cuộc sống; kicchaṃ: (là điều) khó khăn; saddhamma savanaṃ: được nghe Phật Pháp; kicchaṃ: (là điều) khó khăn; Buddhānaṃ uppādo: sự ra đời của một vị Phật; kiccho: là điều khó khăn và là điều hiếm có

Trong vòng sinh-tử, điều rất hiếm-có là được sinh ra làm người. Điều hiếm-có và khó-khăn là được cơ hội nghe giảng Phật Pháp. Điều thật sự hiếm-có là sự ra đời của một vị Phật.

Bài kệ 182 của Kinh Pháp Cú nầy, được anh Tâm Minh chuyển dịch thành thơ như sau:

(182) Khó mà sinh được làm người, Rồi ra sống được trọn đời khó hơn, Được nghe chánh pháp tuyên dương. Cũng là điều khó trăm đường mà thôi, Duyên may gặp Phật ra đời. Là điều hy hữu, tuyệt vời biết bao.

BÌNH LUẬN

maccāna jīvitaṃ: con người sống trong vòng sinh tử. Từ ngữ macca(con người) được dùng cho con người bởi vì ai sinh ra làm người thì cũng sẽ phải chết. Tất cả mọi hình thức của cuộc sống rồi sẽ phải chết. Tuy nhiên, từ ngữ macca có ý nghĩa quan trọng đặc biệt cho con người; bởi vì trong tất cả các loài động vật, con người là sinh vật duy nhất, mà có thể nhận-biết cái-chết là điều không thể nào tránh được. 

Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf

SHORT TITLE:

The Story Of Erakapatta The Nāga King, Verse 182, Treasury Of Truth

FULL TITLE:

Four Rare Opportunities - The Story Of Erakapatta The Nāga King, Verse 182 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net

VERSE 182:

182. Kiccho manussapaṭilābho
kicchaṃ maccāna’jīvitaṃ
kicchaṃ saddhammasavanaṃ
kiccho Buddhānaṃ uppādo. (14:4)

182. Human birth is hard to gain,
hard for mortals is their life,
to come to Dhamma True is hard,
rare the Buddhas’ arising.

While residing near Bārānasī the Buddha spoke this verse, with reference to Erakapatta, a king of the nāgas.

Once there was a nāga king by the name of Erakapatta. In one of his past existences during the time of Kassapa Buddha he had been a monk for a long time. Through worry over a minor offence he had committed during that time, he was reborn as a nāga. As a nāga, he waited for the appearance of a Buddha. Erakapatta had a very beautiful daughter, and he made use of her as a means of finding the Buddha. He made it known that whoever could answer her questions could claim her for a wife. Twice every month, Erakapatta made her dance in the open and sing out her questions. Many suitors came to answer her questions hoping to claim her, but no one could give the correct answer.

One day, the Buddha saw a youth named Uttara in his vision. He also knew that the youth would attain sotāpatti fruition in connection with the questions put by the daughter of Erakapatta the nāga. By then the youth was already on his way to see Erakapatta’s daughter. The Buddha stopped him and taught him how to answer the questions. While he was being taught, Uttara attained sotāpatti fruition. Now that Uttara had attained sotāpatti fruition, he had no desire for the nāga princess. However, Uttara still went to answer the questions for the benefit of numerous other beings.

The first four questions were:

(1) Who is a ruler? (2) Is one who is overwhelmed by the mist of moral defilements to be called a ruler? (3) What ruler is free from moral defilements? (4) What sort of person is to be called a fool?

The answers to the above questions were:

(1) He who controls the six senses is a ruler. (2) One who is overwhelmed by the mist of moral defilements is not to be called a ruler; he who is free from craving is called a ruler. (3) The ruler who is free from craving is free from moral defilements. (4) A person who seeks for sensual pleasures is called a fool.

 Having had the correct answers to the above, the nāga princess sang out questions regarding the floods (oghas) of sensual desire, of renewed existence, of false doctrine and of ignorance, and how they could be overcome. Uttara answered these questions as taught by the Buddha. When Erakapatta heard these answers he knew that a Buddha had appeared in this world. So he asked Uttara to take him to the Buddha. On seeing the Buddha, Erakapatta related to the Buddha how he had been a monk during the time of Kassapa Buddha, how he had accidentally caused a grass blade to be broken off while travelling in a boat, and how he had worried over that little offence for having failed to do the act of exoneration as prescribed, and finally how he was reborn as a nāga. After hearing him, the Buddha told him how difficult it was to be born in the human world, and to be born during the appearance of the Buddhas or during the time of their teaching.

EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 182)

manussa paṭilābho kiccho maccāna jīvitaṃ kicchaṃ saddhamma savanaṃ kicchaṃ Buddhānaṃ uppādo kiccho

manussa paṭilābho: winning human existence; kiccho: (is) difficult; maccāna: of mortals; jīvitaṃ: life; kicchaṃ: (is) difficult; saddhamma savanaṃ: hearing the Dhamma; kicchaṃ: (is) difficult; Buddhānaṃ uppādo: the birth of the Buddha; kiccho: is difficult and rare

It is rarely that one is born as a human being, in this cycle of rebirth. It is difficult and rare to get the opportunity to hear the good teaching. It is, indeed, rare for the birth of a Buddha to occur.

COMMENTARY

maccāna jīvitaṃ: life of a mortal. The word macca (mortal) is applied to a human being because he is subject to death. All forms of life are subject to death. But the term macca is especially significant to human beings; because, of all animals, the human beings are the only ones that can become aware of the inevitability of death.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4025)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 5207)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2674)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6153)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3068)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3116)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3325)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3250)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3309)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4572)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2740)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5232)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3887)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3853)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3216)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4156)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5069)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3533)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6766)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3978)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3231)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3110)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2973)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5882)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4646)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3508)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2906)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3320)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4437)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5738)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6650)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3738)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4544)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4622)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3985)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3414)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4647)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6074)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5854)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3648)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4697)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4467)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4545)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4280)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4610)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8232)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3935)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5734)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5221)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6867)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6191)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 6006)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5818)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6313)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6803)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4985)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5582)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6404)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3798)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5438)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant