Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Câu Chuyện Về Ma Vương, Kệ 385, Kho Báu Sự Thật

17 Tháng Bảy 201619:41(Xem: 8884)
Câu Chuyện Về Ma Vương, Kệ 385, Kho Báu Sự Thật
CÂU CHUYỆN VỀ MA VƯƠNG,
KỆ 385, KHO BÁU SỰ THẬT

(The Story of Māra, Verse 385, Treasury Of Truth)
Người Có Tâm Giải-Thoát Là Một Vị A La Hán Kinh Pháp Cú Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero
Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến - Hình Vẽ: P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net
(The Unfettered Person Is A Brāhmaṇa - The Story of Māra, Verse 385 - Treasury Of

Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)

Câu Chuyện Về Ma Vương, Kệ 385, Kho Báu Sự Thật

BÀI KỆ 385:

385. Yassa pāraṃ apāraṃ vā
pārāpāraṃ na vijjati
vītaddaraṃ visaṃyuttaṃ
tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. (26:3)

385. Người mà ta tìm-thấy không ở bờ bên nầy, hoặc bờ bên kia,
người nầy không ở bờ bên nầy (gần), và bờ bên kia (xa),
người nầy không còn sợ hãi, người nầy đã tự do, vượt ra ngoài mọi sự trói buộc,
người nầy ta gọi là một vị A La Hán (Bà La Môn)

Trong khi cư trú tại tu viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy về Ma Vương.

một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật, "Bạch Thế Tôn, ngài thường hay dùng từ ngữ bờ-bên-kia (pāraṃ), ý nghĩa của từ ngữ nầy là gì?" Đức Phật biết rằng người đàn ông nầy là Ma Vương, nên ngài đã khiển trách Ma Vương, "Nầy Ma Vương hung dữ! Các từ ngữ bờ-bên-nầy và bờ-bên-kia không liên hệ gì đến ông cả. Pāraṃ, có nghĩa là bờ bên kia, mà chỉ có thể đạt tới bởi các vị A La Hán, bởi vì tâm của họ không còn tì vết, không còn dơ bẩn."

BÀI KỆ 385, GIẢI THÍCH TỪ TIẾNG PALI:

yassa pāraṃ apāraṃ vā pārāpāraṃ na vijjati vītaddaraṃ
visaṃyuttaṃ taṃ ahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ

Yassa: đối với người; pāraṃ: bờ bên kia (bờ xa); apāraṃ: bờ bên nầy (bờ gần); pārāpāraṃ: bờ biển ở đây, và bờ biển ở kia; na vijjati: không tồn tại; vītaddaraṃ: không tì-vết; visaṃyuttaṃ: tâm không còn tì vết, không còn dơ bẩn; taṃ: vị thiện thần đó; ahaṃ: Tôi; brūmi brāhmaṇaṃ: mô tả như là một vị A La Hán (Bà La Môn)

Đối với người nầy, không có bờ bên kia. Đối với người nầy, cũng không có bờ bên nầy. Đối với người nầy, cả hai bờ đều không có mặt. Bởi vì, người nầy đã tự do, vượt ra ngoài mọi sự trói buộc, người nầy chẳng còn gì để lo âu nữa. Ta gọi người nầy là một vị A La Hán (Bà La Môn).

Bài kệ 385 trong Kinh Pháp Cú nầy, đã được anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thành thơ như sau:

(385) Không bờ này với lục căn, Cũng không ôm giữ lục trần bờ kia. Hai bờ mau chóng thoát ly. Buông cho phiền não trôi đi nhạt nhòa. Buộc ràng dục vọng lìa xa. Như Lai gọi họ là Bà La Môn.

BÌNH LUẬN

pāraṃ: các lãnh vực của giác quan. Có mười hai lãnh vực giác quan, sáu lãnh vực thuộc về bên trong (sáu căn), sáu lãnh vực còn lại hướng ra bên ngoài (sáu trần). Những lãnh vực nầy được mô tả như là āyatanas - các cõi, là tên gọi của bốn tầng thiền. Mười hai nền tảng (hoặc là nguồn) tùy-thuộc vào các quá-trình tinh-thần, bao gồm năm giác quan (thuộc về vật chất) và cái-biết (ý thức), là sáu giác quan (sáu căn, ajjhattika), và sáu đối tượng, gọi là các nền tảng bên ngoài (sáu trần, bāhira):

mắt, hoặc cơ quan thị giác; đối tượng là vật trông thấy,
tai, hoặc cơ quan thính giác; âm thanh, hoặc đối tượng là âm thanh,
mũi, hoặc cơ quan khứu giác; mùi vị, hoặc đối tượng là mùi vị,
lưỡi, hoặc cơ quan vị giác; hương vị, hoặc đối tượng là hương vị,
cơ thể, hoặc cơ quan xúc giác; sự xúc chạm của cơ thể, hoặc đối tượng là xúc giác,
nền tảng của ý, hoặc cái-biết, ý thức; đối tượng của ý (manayatana)

(dhammāyatana),

Qua cơ quan thị giác (cakkhāyatana) có nghĩa là phần nhạy cảm của mắt (cakkhu-pasāda) tạo nên do bốn yếu tố ... đáp ứng với sự kích thích của giác quan (sa-ppaṭigha). Lời giải thích tương tự cho bốn giác quan (thuộc về vật chất) còn lại.

Nền tảng của ý (manāyatana) là một thuật ngữ chung cho tất cả cái-biết (ý thức), vì thế không nên nhầm lẫn với yếu-tố của ý (ý giới, mano-dhātu), mà chỉ thực hiện các chức năng của sự nhắm đến (vajjana) đối-tượng của giác quan, và nhận lấy (sampaṭicchana) đối-tượng của giác quan. Về chức năng của ý (viññāṇa-kicca):

Các đối tượng nhìn thấy (rūpāyatana) được mô tảhiện tượng mà được tạo nên do bốn yếu tố vật chất, và xuất hiện như là các mầu sắc. Những gì được trông thấy nhờ sự nhận-thấy bằng mắt, chúng ta hãy nói rằng cái-biết của mắt (cakkhu-viññāṇa) là mầu sắc, và các sự tương-phản về ánh sáng, chứ không phải là các vật chất có ba-chiều.

Nền tảng đối tượng của ý (dhammāyatana) thì giống y-hệt như yếu-tố đối tượng của ý (dhamma-dhātu và dhammārammaṇa). Nền tảng nầy có thể là vật chất, hoặc là tinh thần, và thuộc về quá-khứ hiện-tại hoặc tương-lai, có thể là sự thật hoặc là sự tưởng tượng.

Năm giác quan (thuộc về vật chất) cũng được gọi là các giác quan (indriya), và chúng ta có thể nói về các giác quan như sau: Mỗi một trong năm giác quan có một lãnh vực khác nhau, và không có giác quan nào tham dự vào lãnh vực của các giác quan khác ...; các giác quan có sự hỗ trợ của ý‎ nghĩ ..., các giác quan bị hạn chế bởi năng-lượng ..., nhưng năng-lượng lại bị hạn chế bởi sức-nóng (nhiệt) ..., sức-nóng lại bị hạn chế bởi năng-lượng, giống như ánh sáng và ngọn lửa của ngọn đèn dầu, cái nầy bị hạn chế bởi cái kia.

Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf

 

SHORT TITLE:
The Story of Māra, Verse 385, Treasury Of Truth
FULL TITLE:
The Unfettered Person Is A Brāhmaṇa - The Story of Māra, Verse 385 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net


VERSE 385:

385. Yassa pāraṃ apāraṃ vā

pārāpāraṃ na vijjati

vītaddaraṃ visaṃyuttaṃ

tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. (26:3)

385. For whom is found no near or far,

for whom’s no near and far,

free of fear and fetter-free,

that one I call a Brahmin True.

While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha spoke this verse with reference to Māra.

On one occasion, Māra came to the Buddha disguised as a man and asked him, “Venerable! You often say the word pāraṃ; what is the meaning of that word?” The Buddha, knowing that it was Māra who was asking that question, chided him, “O’ wicked Māra! The words pāraṃ and apāraṃ have nothing to do with you. Pāraṃ, which means the other shore, can be reached only by the arahats who are free from moral defilements.”

EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 385)

yassa pāraṃ apāraṃ vā pārāpāraṃ na vijjati vītaddaraṃ

visaṃyuttaṃ taṃ ahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ

Yassa: for whom; pāraṃ: the farther shore; apāraṃ: the near shore; pārāpāraṃ: hither and thither shores; na vijjati: do not exist; vītaddaraṃ: blemishless; visaṃyuttaṃ: free of all defilements; taṃ: that saint; ahaṃ: I; brūmi brāhmaṇaṃ: describe as a Brāhmaṇa

To him there is no further shore. To him there is no near shore either. To him both these shores are nonexistent. He is free of anxiety and is freed from bonds. That person I describe as a Brāhmaṇa.

COMMENTARY

pāraṃ: sense fields. Sense fields are twelve, six of which are personal sense-fields, the other six are external sense-fields. These are described as āyatanas – spheres, which is a name for the four immaterial absorptions. The twelve bases or sources on which depend the mental processes, consist of five physical sense-organs and consciousness, being the six personal (ajjhattika) bases; and six objects, the so-called external (bāhira) bases:

eye, or visual organ; visible object,

ear, or auditory organ; sound, or audible object,

nose, or olfactory organ; odour, or olfactive object,

tongue, or gustatory organ; taste, or gustative object,

body, or tactile organ; body-impression, or tactile object,

mind-base, or consciousness; mind-object (manayatana)

(dhammāyatana),

By the visual organ (cakkhāyatana) is meant the sensitive part of the eye (cakkhu-pasāda) built up of the four elements… responding to sense-stimuli (sa-ppaṭigha). Similar is the explanation of the four remaining physical sense-organs.

The mind-base (manāyatana) is a collective term for all consciousness, whatever, and should therefore not be confounded with the mindelement (mano-dhātu), which latter performs only the functions of adverting (vajjana) to the sense-object, and of receiving (sampaṭicchana) the sense-object. On the functions of the mind (viññāna-kicca):

The visible object (rūpāyatana) is described as that phenomenon which is built up of the four physical elements and appears as colours. What is seen by visual perception, let’s say eye-consciousness (cakkhu-viññāna), are colours and differences of light, but not three dimensional bodily things.

Mind-object-base (dhammāyatana) is identical with mind-object-element (dhamma-dhātu and dhammārammaṇa). It may be physical or mental, past present or future, real or imaginary.

The five physical sense organs are also called faculties (indriya), and of these faculties it is said: Each of the five faculties owns a different sphere, and none of them partakes of the sphere of another one…; they have mind as their support… are conditioned by vitality… but vitality again is conditioned by heat… heat again by vitality, just as the light and flame of a burning lamp are mutually conditioned.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7703)
Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi qua nhiều tầng bậc trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục trong vấn đề ấy.
(Xem: 6909)
Tối nay tôi được yêu cầu để nó về sự phân biệt Phật Pháp, giáo lý của Đức Phật, với văn hóa Á châu hay văn hóa Tây Tạng...
(Xem: 13795)
Ngày nay trong sự tu học, chúng ta thường được hướng dẫn áp dụng chánh niệm (mindfulness) vào trong mọi vấn đề.
(Xem: 7504)
Trong sinh hoạt hằng ngày, nếu người tu thiếu sự kiểm soát, thiếu tích cực, chúng ta dễ lạc vào lối dở dở ương ương, không đi tới đâu hết.
(Xem: 9284)
Chúng ta cần nên làm quen với những tâm thái tốt, nhưng theo thói quen, chúng ta thường có những vọng tưởng phiền não, như sân hận, gây nên những chướng ngại lớn cho bản thân.
(Xem: 7827)
Khi chúng ta nói về nghiệp thì nó là một giải thích cơ bản về lý do và cách những kinh nghiệm vui buồn của chúng ta lên xuống ra sao, đó là tất cả những gì thuộc về nghiệp.
(Xem: 7740)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế...
(Xem: 7308)
Bố thí là một trong những hạnh lành căn bản mà những người con Phật thường thực thi trong đời sống hàng ngày.
(Xem: 7703)
Sống trên cõi đời, ai cũng muốn nắm giữ đủ thứ hết, giữ không được thì sinh ra tiếc nuối, buồn khổ.
(Xem: 7441)
Câu mở đầu trong hiến chương của Tổ chức Unesco trên đây phản ảnh rõ rệt lời dạy thật thâm thúy của Đức Phật qua câu thứ nhất trong kinh Pháp Cú.
(Xem: 8622)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ-tát Quan Thế Âm.
(Xem: 11038)
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà ai cũng biết, ai cũng đọc như thần chú để an ủi cõi lòng mỗi khi phiền muộn , cũng là câu mà Lục tổ Huệ Năng hơn ngàn năm trước, chỉ nghe lómđại ngộ...
(Xem: 15380)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 19152)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14850)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 8792)
Phật tử, chúng ta phải hiểu biết đúng về tam quy, giới luật, nhân quả, nghiệp, nghiệp đạo, quả báo của nghiệp, để nhận định sự khác nhau giữa vị trígiá trị, mục đích của pháp và luật.
(Xem: 8808)
Giáo lý thập như thị xuất xứ ở phẩm Phương tiện của kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là một bộ kinh đại thừa xiển dương tinh thần Nhất Phật thừa...
(Xem: 14607)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 15246)
Phật Pháp Căn Bản (Basic Buddhist Doctrines) - Việt - Anh; Vietnamese - English, Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại - Oversea Vietnamese Buddhism 2009
(Xem: 8505)
Chúng ta tìm thấy một nguồn sinh lực rạt rào của kinh tạng Pàli mà các học giả đều công nhận là gần với thời Phật nhất, ghi lại những lời dạy của Ngài qua 49 năm du hóa.
(Xem: 10957)
Quan điểm phủ nhận về một đấng Toàn năngVĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana.
(Xem: 11300)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8695)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9048)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 19716)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 24621)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 8778)
Trong Phật giáo, tùy theo mỗi tông phái, mỗi xứ sở mà các tăng sĩ có chế độ thực phẩm độ nhật khác nhau. Sự khác nhau trong việc thọ nhận thực phẩm này trước hết được đặt cơ sở trên những bản kinh mà mỗi truyền thống Phật giáo thừa nhận...
(Xem: 9118)
Tánh khôngTính không cùng một ý nghĩa, một pháp không hai; từ ngữ Phật học “Tánh không” do người miền Nam Việt Nam thuyết giảng biên soạn
(Xem: 10775)
Đạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Đạo Phật. Dân chúng thường nói "Đạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
(Xem: 9001)
Khi chúng ta nói về Ba Ngôi Tôn Quý - Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo - như những đối tượng của quy y, tất cả có thể là những đối tượng nhân quy y hay đối tượng quả quy y.
(Xem: 7895)
Theo kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao rộng nhất của Đại thừa, thì vũ trụ này là Báo thânHóa thân của Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 8787)
Từ lời Phật dạy trong kinh, các ngươi lấy pháp làm nơi nương tựa, cho đến lúc Phật sắp nhập Niết-bàn biến thành câu: sau khi Như Lai nhập diệt các ngươi lấy Pháp và Luật làm thầy...
(Xem: 8258)
Sau khi phát sinh tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề, quý vị tiếp theo thọ nhận những sự thực hành Bồ tát thật sự. Chư Bồ tát ngưỡng mộ đạt đến thể trạng toàn giác.
(Xem: 7270)
Xuất bản tháng 1 năm 2015
(Xem: 11071)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánhPhật giới (buddha-dhātu), v.v..., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều
(Xem: 7358)
Đây là những bài khai thị buổi sáng của hòa thượng Tịnh Không cho đồng tu tại Hoa Tạng Đồ Thư Quán, chưa được hòa thượng giám định.
(Xem: 8247)
Hôm nay chúng ta sẽ nói về tinh thần giác ngộ và việc giúp đở người khác. Tất cả những truyền thống tôn giáo nhấn mạnh lòng vị tha trong cách này hay cách khác.
(Xem: 17597)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 44172)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 45456)
Hai mươi sáu thế kỷ về trước, Thái Tử Tất Đạt Đa đã ra đời tại hoa viên Lâm Tỳ Ni, dưới một gốc cây Vô Ưu. Ngày đó, Thái Tử đã có dịp cai trị một vương quốc, nhưng Ngài đã từ chối.
(Xem: 45006)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 10592)
Tác phẩm “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” vốn là “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” trước đây, đã được xuất bản lần thứ nhất vào năm 2004, là tuyển tập những bài viết và dịch của tác giả
(Xem: 8510)
Người tu chấp có, không thể tột được lý đạo. Nhưng dù chấp có nhiều như núi Tu Di vẫn không tai hại như chấp không bằng hạt cải. Đó là tai họa lớn.
(Xem: 7535)
Mạt phápthời kỳ thứ ba sau Chánh phápTượng pháp. Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm.
(Xem: 7553)
Việc làm rất thiện, rất lành Nếu làm xong thấy lòng mình thảnh thơi Chẳng ăn năn, lại mừng vui Tương lai quả báo đẹp tươi tốt lành.
(Xem: 7346)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây...
(Xem: 12073)
Đức Phật đản sanh vào thế kỷ thứ 6 trước CN. Phật thành đạo năm 35 tuổi, sau đó đi thuyết giảng suốt 45 năm còn lại cho đến khi Bát-Niết-bàn năm 80 tuổi.
(Xem: 7906)
Thế gian như không hoa, tất cả pháp như huyễn, thế gian hằng như mộng, khổ ở thế gian cũng như thế, chỉ như bóng lòa thoáng hiện liền mất, đâu thực có thế gian khổ để phải lìa?
(Xem: 8405)
Kể từ buổi khai thiên lập địa tới bây giờ, trên mặt đất hoang vu mịt mù sương khói còn thấp thoáng những bóng người đi giữa thiên thu vời vợi.
(Xem: 9147)
Nền tảng của đạo Phật là những lời Phật dạy được ghi chép trong Kinh điển. Người Phật tử tự nguyện đặt niềm tin vào Kinh điển với sự suy xét sáng suốt...
(Xem: 8076)
Cao tăng truyệnmột thể loại sử ký của Phật giáo Trung Hoa, ghi lại truyện tích và cuộc đời hành đạo của chư vị Cao tăng.
(Xem: 8870)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh.
(Xem: 7981)
Thời gian có lẽ là một phạm trù gây nên những băn khoăn nhiều nhất cho triết học, khoa học, tôn giáocon người nói chung bởi nó là điểm trụ của mọi hình thái tồn vong vũ trụ.
(Xem: 8154)
Người học Phật, trước tiên cần thấy tính. Thấy tính, không phải là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi không thể nhìn thấy.
(Xem: 8657)
Những vấn đề mang tính toàn cầu bao gồm: sự nóng lên toàn cầu, cạn kiệt tầng ozone, nạn phá rừng và giảm thiểu đa dạng sinh học, sa mạc hóa, mưa axít, và ô nhiễm nước biển...
(Xem: 16323)
Từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến Việt Nam, các dòng truyền thừa lịch đại chư vị tổ sư...
(Xem: 7126)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà.
(Xem: 6919)
... thuật ngữ nhất-xiển-đề có khi mang nghĩa là cực ác, hoặc mang nghĩa là một kẻ quá nhiều tham dục, tham luyến sanh tử, không cầu giải thoát.
(Xem: 9612)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God.
(Xem: 23072)
Đêm Rằm tháng Giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời. Trăng vẫn sáng đẹp như xưa, không có gì thay đổi...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant