Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Câu Chuyện Về Ma Vương, Kệ 385, Kho Báu Sự Thật

17 Tháng Bảy 201619:41(Xem: 8957)
Câu Chuyện Về Ma Vương, Kệ 385, Kho Báu Sự Thật
CÂU CHUYỆN VỀ MA VƯƠNG,
KỆ 385, KHO BÁU SỰ THẬT

(The Story of Māra, Verse 385, Treasury Of Truth)
Người Có Tâm Giải-Thoát Là Một Vị A La Hán Kinh Pháp Cú Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero
Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến - Hình Vẽ: P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net
(The Unfettered Person Is A Brāhmaṇa - The Story of Māra, Verse 385 - Treasury Of

Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)

Câu Chuyện Về Ma Vương, Kệ 385, Kho Báu Sự Thật

BÀI KỆ 385:

385. Yassa pāraṃ apāraṃ vā
pārāpāraṃ na vijjati
vītaddaraṃ visaṃyuttaṃ
tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. (26:3)

385. Người mà ta tìm-thấy không ở bờ bên nầy, hoặc bờ bên kia,
người nầy không ở bờ bên nầy (gần), và bờ bên kia (xa),
người nầy không còn sợ hãi, người nầy đã tự do, vượt ra ngoài mọi sự trói buộc,
người nầy ta gọi là một vị A La Hán (Bà La Môn)

Trong khi cư trú tại tu viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy về Ma Vương.

một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật, "Bạch Thế Tôn, ngài thường hay dùng từ ngữ bờ-bên-kia (pāraṃ), ý nghĩa của từ ngữ nầy là gì?" Đức Phật biết rằng người đàn ông nầy là Ma Vương, nên ngài đã khiển trách Ma Vương, "Nầy Ma Vương hung dữ! Các từ ngữ bờ-bên-nầy và bờ-bên-kia không liên hệ gì đến ông cả. Pāraṃ, có nghĩa là bờ bên kia, mà chỉ có thể đạt tới bởi các vị A La Hán, bởi vì tâm của họ không còn tì vết, không còn dơ bẩn."

BÀI KỆ 385, GIẢI THÍCH TỪ TIẾNG PALI:

yassa pāraṃ apāraṃ vā pārāpāraṃ na vijjati vītaddaraṃ
visaṃyuttaṃ taṃ ahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ

Yassa: đối với người; pāraṃ: bờ bên kia (bờ xa); apāraṃ: bờ bên nầy (bờ gần); pārāpāraṃ: bờ biển ở đây, và bờ biển ở kia; na vijjati: không tồn tại; vītaddaraṃ: không tì-vết; visaṃyuttaṃ: tâm không còn tì vết, không còn dơ bẩn; taṃ: vị thiện thần đó; ahaṃ: Tôi; brūmi brāhmaṇaṃ: mô tả như là một vị A La Hán (Bà La Môn)

Đối với người nầy, không có bờ bên kia. Đối với người nầy, cũng không có bờ bên nầy. Đối với người nầy, cả hai bờ đều không có mặt. Bởi vì, người nầy đã tự do, vượt ra ngoài mọi sự trói buộc, người nầy chẳng còn gì để lo âu nữa. Ta gọi người nầy là một vị A La Hán (Bà La Môn).

Bài kệ 385 trong Kinh Pháp Cú nầy, đã được anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thành thơ như sau:

(385) Không bờ này với lục căn, Cũng không ôm giữ lục trần bờ kia. Hai bờ mau chóng thoát ly. Buông cho phiền não trôi đi nhạt nhòa. Buộc ràng dục vọng lìa xa. Như Lai gọi họ là Bà La Môn.

BÌNH LUẬN

pāraṃ: các lãnh vực của giác quan. Có mười hai lãnh vực giác quan, sáu lãnh vực thuộc về bên trong (sáu căn), sáu lãnh vực còn lại hướng ra bên ngoài (sáu trần). Những lãnh vực nầy được mô tả như là āyatanas - các cõi, là tên gọi của bốn tầng thiền. Mười hai nền tảng (hoặc là nguồn) tùy-thuộc vào các quá-trình tinh-thần, bao gồm năm giác quan (thuộc về vật chất) và cái-biết (ý thức), là sáu giác quan (sáu căn, ajjhattika), và sáu đối tượng, gọi là các nền tảng bên ngoài (sáu trần, bāhira):

mắt, hoặc cơ quan thị giác; đối tượng là vật trông thấy,
tai, hoặc cơ quan thính giác; âm thanh, hoặc đối tượng là âm thanh,
mũi, hoặc cơ quan khứu giác; mùi vị, hoặc đối tượng là mùi vị,
lưỡi, hoặc cơ quan vị giác; hương vị, hoặc đối tượng là hương vị,
cơ thể, hoặc cơ quan xúc giác; sự xúc chạm của cơ thể, hoặc đối tượng là xúc giác,
nền tảng của ý, hoặc cái-biết, ý thức; đối tượng của ý (manayatana)

(dhammāyatana),

Qua cơ quan thị giác (cakkhāyatana) có nghĩa là phần nhạy cảm của mắt (cakkhu-pasāda) tạo nên do bốn yếu tố ... đáp ứng với sự kích thích của giác quan (sa-ppaṭigha). Lời giải thích tương tự cho bốn giác quan (thuộc về vật chất) còn lại.

Nền tảng của ý (manāyatana) là một thuật ngữ chung cho tất cả cái-biết (ý thức), vì thế không nên nhầm lẫn với yếu-tố của ý (ý giới, mano-dhātu), mà chỉ thực hiện các chức năng của sự nhắm đến (vajjana) đối-tượng của giác quan, và nhận lấy (sampaṭicchana) đối-tượng của giác quan. Về chức năng của ý (viññāṇa-kicca):

Các đối tượng nhìn thấy (rūpāyatana) được mô tảhiện tượng mà được tạo nên do bốn yếu tố vật chất, và xuất hiện như là các mầu sắc. Những gì được trông thấy nhờ sự nhận-thấy bằng mắt, chúng ta hãy nói rằng cái-biết của mắt (cakkhu-viññāṇa) là mầu sắc, và các sự tương-phản về ánh sáng, chứ không phải là các vật chất có ba-chiều.

Nền tảng đối tượng của ý (dhammāyatana) thì giống y-hệt như yếu-tố đối tượng của ý (dhamma-dhātu và dhammārammaṇa). Nền tảng nầy có thể là vật chất, hoặc là tinh thần, và thuộc về quá-khứ hiện-tại hoặc tương-lai, có thể là sự thật hoặc là sự tưởng tượng.

Năm giác quan (thuộc về vật chất) cũng được gọi là các giác quan (indriya), và chúng ta có thể nói về các giác quan như sau: Mỗi một trong năm giác quan có một lãnh vực khác nhau, và không có giác quan nào tham dự vào lãnh vực của các giác quan khác ...; các giác quan có sự hỗ trợ của ý‎ nghĩ ..., các giác quan bị hạn chế bởi năng-lượng ..., nhưng năng-lượng lại bị hạn chế bởi sức-nóng (nhiệt) ..., sức-nóng lại bị hạn chế bởi năng-lượng, giống như ánh sáng và ngọn lửa của ngọn đèn dầu, cái nầy bị hạn chế bởi cái kia.

Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf

 

SHORT TITLE:
The Story of Māra, Verse 385, Treasury Of Truth
FULL TITLE:
The Unfettered Person Is A Brāhmaṇa - The Story of Māra, Verse 385 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net


VERSE 385:

385. Yassa pāraṃ apāraṃ vā

pārāpāraṃ na vijjati

vītaddaraṃ visaṃyuttaṃ

tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. (26:3)

385. For whom is found no near or far,

for whom’s no near and far,

free of fear and fetter-free,

that one I call a Brahmin True.

While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha spoke this verse with reference to Māra.

On one occasion, Māra came to the Buddha disguised as a man and asked him, “Venerable! You often say the word pāraṃ; what is the meaning of that word?” The Buddha, knowing that it was Māra who was asking that question, chided him, “O’ wicked Māra! The words pāraṃ and apāraṃ have nothing to do with you. Pāraṃ, which means the other shore, can be reached only by the arahats who are free from moral defilements.”

EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 385)

yassa pāraṃ apāraṃ vā pārāpāraṃ na vijjati vītaddaraṃ

visaṃyuttaṃ taṃ ahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ

Yassa: for whom; pāraṃ: the farther shore; apāraṃ: the near shore; pārāpāraṃ: hither and thither shores; na vijjati: do not exist; vītaddaraṃ: blemishless; visaṃyuttaṃ: free of all defilements; taṃ: that saint; ahaṃ: I; brūmi brāhmaṇaṃ: describe as a Brāhmaṇa

To him there is no further shore. To him there is no near shore either. To him both these shores are nonexistent. He is free of anxiety and is freed from bonds. That person I describe as a Brāhmaṇa.

COMMENTARY

pāraṃ: sense fields. Sense fields are twelve, six of which are personal sense-fields, the other six are external sense-fields. These are described as āyatanas – spheres, which is a name for the four immaterial absorptions. The twelve bases or sources on which depend the mental processes, consist of five physical sense-organs and consciousness, being the six personal (ajjhattika) bases; and six objects, the so-called external (bāhira) bases:

eye, or visual organ; visible object,

ear, or auditory organ; sound, or audible object,

nose, or olfactory organ; odour, or olfactive object,

tongue, or gustatory organ; taste, or gustative object,

body, or tactile organ; body-impression, or tactile object,

mind-base, or consciousness; mind-object (manayatana)

(dhammāyatana),

By the visual organ (cakkhāyatana) is meant the sensitive part of the eye (cakkhu-pasāda) built up of the four elements… responding to sense-stimuli (sa-ppaṭigha). Similar is the explanation of the four remaining physical sense-organs.

The mind-base (manāyatana) is a collective term for all consciousness, whatever, and should therefore not be confounded with the mindelement (mano-dhātu), which latter performs only the functions of adverting (vajjana) to the sense-object, and of receiving (sampaṭicchana) the sense-object. On the functions of the mind (viññāna-kicca):

The visible object (rūpāyatana) is described as that phenomenon which is built up of the four physical elements and appears as colours. What is seen by visual perception, let’s say eye-consciousness (cakkhu-viññāna), are colours and differences of light, but not three dimensional bodily things.

Mind-object-base (dhammāyatana) is identical with mind-object-element (dhamma-dhātu and dhammārammaṇa). It may be physical or mental, past present or future, real or imaginary.

The five physical sense organs are also called faculties (indriya), and of these faculties it is said: Each of the five faculties owns a different sphere, and none of them partakes of the sphere of another one…; they have mind as their support… are conditioned by vitality… but vitality again is conditioned by heat… heat again by vitality, just as the light and flame of a burning lamp are mutually conditioned.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8223)
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn từ Sơ thiền rồi Nhị Thiền, Tam thiền lần lượt thuận nghịch như vậy ra vào chín bậc thiền định xong, nói với đại chúng rằng...
(Xem: 8301)
Niết bàn thì ở khắp mọi nơi, ít nhất là đối với những người nói tiếng Anh. Từ ngữ nầy đã được dùng trong Anh Ngữ với ý nghĩa là "hạnh phúc" hoặc "bình yên".
(Xem: 9164)
Thần thông của Đức Phật là một trong những đề tài thu hút người viết và lôi cuốn người đọc. Từ trước đến nay, đã có nhiều bài viết đề cập đến vấn đề này.
(Xem: 8056)
Một số người tái-sinh lên làm người (sinh từ bào thai trong bụng mẹ), người độc-ác tái-sinh xuống địa ngục, người hiền-lành tái-sinh lên cõi trời, và người không-còn ô-nhiễm, sống hoàn-toàn an-lạc nơi cõi Niết Bàn.
(Xem: 16262)
Khoa học thần kinh ngày hôm nay đã chứng minh một cách khách quan và cụ thể rằng chánh niệm (samma-sati) là con đường trực tiếp nhất để gạt bỏ vọng tưởng về cái "ta"
(Xem: 15787)
Trong các ngành khoa học, rất có thể khoa học thần kinh (neurosciences) sẽ là ngành phát triển mạnh và gây nhiều ảnh hưởng nhất trong những thập niên tới.
(Xem: 8001)
Sự kiện Đức Phật nhập Niết-bàn thường được các giới Phật giáo tổ chức thành một lễ hội thiêng liêng.
(Xem: 8008)
Từ trước đến nay không có một tôn giáo, triết họctâm lý học nào phân tích tâm đầy đủ rõ ràng như Phật Giáo.
(Xem: 8723)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc.
(Xem: 7898)
Kinh Hoa sen pháp diệu là dịch nghĩa từ tiếng Phạn Saddharmapuṇḍarīka-sūtra, và được dịch ra tiếng Trung Hoa bởi nhiều dịch giả.
(Xem: 7489)
Chẳng đồng nhất, chẳng dị biệt, chẳng đoạn diệt, chẳng thường hằng: đây là các giáo pháp bất tử của chư Phật, chư thượng thủ của thế giới.
(Xem: 9309)
Theo Phật Giáo, tâm tư duy (Tâm phan, như vệ tinh quả đất, định tinh mặt trời, và vô lượng thiên hà) có thể sinh ra trong không gian thời gian...
(Xem: 8567)
Trong cuốn giáo thuyết về linh hồn của Phật Giáo, Soul theory of the Buddhist, Giáo Sư Stcherbatsky, ghi nhận rằng...
(Xem: 8627)
Bất kì một sự vật gì tùy thuộc vào một nguyên nhân thì duyên hội thành một hiệu quả.
(Xem: 11907)
Đức Phật đã giải thích nguồn gốc của thế giới, vũ trụ, vạn vật, là do nghiệp quả (cause & effect) hấp dẫn cùng với sức thu hút bởi 12 nhân duyên
(Xem: 7524)
Ngũ uẩn hay là Ngũ ấm chỉ là năm (pañca) nhóm (skandha) tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm...
(Xem: 8294)
Tạng Quang Minhcon đường đi của ánh sáng, cùng với năng lượng (chân hỏa tam muội, energy) và sắc tướng (mass) là phương tiện thần thông để du hành trong vũ trụ.
(Xem: 11735)
Nguyên văn đoạn kinh trong phẩm Phật-đà, Tương ưng bộ, như sau: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là lý duyên khởi?
(Xem: 7404)
Phật Pháp được chia ra làm bốn thể loại là Giáo, Lý, Hành và Quả.
(Xem: 9000)
Tâm người bị ba thứ độc tố trói buộc, chính vì vậy chúng ta không sao vượt thoát được cảnh trầm luân khốn khổ. Chúng ta bị mắc kẹt trong phiền não của ba độc
(Xem: 8417)
Trong ý niệm này là sự bất biến thiên được hiểu như là một sự tướng trạng hoá của thật tướng của các sự vật.
(Xem: 10030)
Mọi tôn giáo đều tin rằng có sự sống sau khi chết, tức có kiếp sau của một ‘linh hồn’ thật sự. Học thuyết Phật giáo nên được phân biệt trong...
(Xem: 9676)
"Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" là một câu kinh rất ngắn trong cả quyển kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật rất nổi tiếng được giới học Phật trích dẫn nhiều nhứt.
(Xem: 9609)
Mọi tồn tại đều vốn có Tự tính (như là bản chất) của nó. Vì rằng cái thành lập ra nó là Nhân tạo tác (Nhân) và Điều kiện tạo tác (Duyên) cũng tồn tại,
(Xem: 10563)
Giai đoạn đầu của Phật giáo Đại thừa được thể chứng qua sự hình thành và phát triển một văn hệ đồ sộ là Bát-nhã ba-la-mật-đa (prajñāpāramitā).
(Xem: 10149)
Căn bản trung quán luận tụng (Mūlamadhyamaka-kārikā) là một bộ luận chính trong ngôi nhà đồ sộ tráng lệ Trung Quán.
(Xem: 8236)
Cộng đồng nhân loại đã đến một điểm nghiêm trọng trong lịch sử của nó. Thế giới ngày nay khiến chúng ta phải chấp nhận nhân loại là một.
(Xem: 20282)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 8091)
Trong thế giới này cá nhân không hiện hữu, ngã cũng không hiện hữu, bởi vì chúng là các sự vật duyên khởi.
(Xem: 8576)
Đối tượng chấp thủ của tâm chấm dứt (tâm hành xứ diệt), Con đường ngôn ngữ không có lối vào (ngôn ngữ đạo đoạn).
(Xem: 9424)
Đấng Toàn Giác biết đã đến lúc sắp kết thúc kiếp sống này của Ngài. Nhưng trước khi nhập diệt, Đức Phật muốn
(Xem: 9332)
Ngã được nói đến, Để phân biệt với vô ngã. Chư Phật dạy thật tướng các pháp, Không có ngã, không có vô ngã.
(Xem: 7746)
Để giúp độc giả, tôi sẽ trình bày một bản tổng hợp giáo lý của các thuyết phục chính yếu về tôn giáotriết học của ngài Long Thọ.
(Xem: 8364)
Đây là bốn Chân lý cao quý. Này chư tăng! Những gì là bốn?
(Xem: 8207)
Do vô minh che lấp, chúng sinh tạo ba hành, nên theo ba hành nghiệp (thân, ngữ, tâm) vào luân hồi sáu cõi.
(Xem: 9036)
Hiện nay, giới nghiên cứu Phật học đang lưu tâm đến vấn đề: “Bát kỉnh pháp do Đức Phật chế ra hay do người sau thêm vào trong Tam tạng giáo điển?”.
(Xem: 8782)
Chúng ta phải hỏi điểm xuất phát là gì, chủ đề là gì, và quan tâm tối hậu của bộ luận tuyệt vời này là gì.
(Xem: 8632)
Chúng ta đang tiến dần đến đỉnh cao vĩ đại của Giáo Pháp, và mặc dù có những nguy hiểm đáng sợ đang đe doạ thế giới chúng ta.
(Xem: 10193)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hoá dân gian như...
(Xem: 8136)
Năm giớimười điều thiện được xem là cơ sở thiết lập đạo đức Phật giáo thì giới thứ hai “Không trộm cắp” là nhằm đảm bảo tính công bình và hướng tâm con người đi đến sự vô tham, vô sân, vô si.
(Xem: 8851)
Một khi tâm giác ngộ đã phát sinh, hạt giống của giáo pháp sẽ tiếp tục lớn mạnh cho dù...
(Xem: 9012)
Năm pháp, cùng tự tính, Tám thức, hai vô ngã. Hết thảy nó đều thâu nhiếp Đại thừa.
(Xem: 8459)
Nếu chúng ta có một sự sân hận lớn dễ bùng nổ và chưa rèn luyện chính mình một cách thích đáng, thế nên khi chúng ta cố gắng để...
(Xem: 7611)
Nguyên lý ở đây, là nguyên lý vô ngã, của Pháp duyên khởi, nguyên lý này ở chỗ khác, Pháp Hoa còn gọi là “vốn thường hằng tịch diệt”:
(Xem: 7526)
Chư Phật thấy các hữu tìnhbản tính tự nhiênniết bàn / bản tính niết bàn (prakrtiparinirvana; natural nirvana), vượt ngoài sầu muộn...
(Xem: 9527)
Phật giáo không bao giờ có khái niệm cõi âm hay là âm phủ. Có thể đây là những từ ngữ của tín ngưỡng dân gian
(Xem: 9891)
Tự lựctha lực là những khái niệm được đề cập rất nhiều trong Phật giáo. Những khái niệm này bao trùm...
(Xem: 8560)
Ba truyền thống Phật giáo Ấn Độ, Trung Hoa và Tây Tạng đều cho rằng Phật tánh hay Như Lai tạng là lần thuyết pháp sau cùng và cũng là cực điểm của kinh điển.
(Xem: 12305)
Tại sao gọi Tánh không duyên khởi? Nhà Phật nói tất cả pháp Tánh không, do duyên hợp thành các pháp.
(Xem: 9628)
Trước khi trở lại Tâm Kinh, hãy thử tìm hiểu thuyết vô ngã qua kiến giải của nhiều bộ phái khác nhau trong Phật giáo để...
(Xem: 7565)
Giáo huấn được mở rộng vô hạn và được tuyên thuyết đến vô lượng chúng sanh khắp các loài đủ các tính khí.
(Xem: 8868)
Sự “chuyển phước” như chỉ là một phép ẩn dụ phần nào đẹp để chỉ những gì xảy ra đối với những ảnh hưởng của hành động có kết quả tốt (puṇya), điều được gọi là “thiện nghiệp”
(Xem: 16914)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 9029)
Theo quan điểm của Phật Giáo thì mục đích của lễ bái là nhằm giúp chúng ta đến gần hơn với Đức Phật.
(Xem: 13261)
Phật giáophương cách dùng lòng Từ Bi để xóa đi, diệt đi lòng sân hận oán hờn, đó là phương thuốc diệt khổ cho vui,
(Xem: 19808)
Phật GiáoVũ Trụ Quan (PDF) - Tác giả: Lê Huy Trứ
(Xem: 8669)
Dưới đây là một bài viết của học giả Phật giáo Philippe Cornu, và cũng là bài mở đầu trong tập san "Hướng nhìn Phật giáo" (Regard Bouddhiste)...
(Xem: 9243)
Đối với Phật giáo, dana - việc bố thí - giữ một vai trò thật quan trọng, bởi vì nếu ngay từ lúc mới khởi sự tu tập mà không thực thi việc bố thí thì sẽ ...
(Xem: 8311)
“Tất cả ba cõi chỉ là Một Tâm”. Phẩm Dạ-ma cung kệ tán nói, “Như tâm, Phật cũng vậy. Như Phật, chúng sanh đồng. Tâm, Phật, và chúng sanh. Cả ba không sai khác”.
(Xem: 10217)
“Theravāda Tantra”, hay “esoteric practices of Theravāda ” là những thuật ngữ mà các học giả phương tây sử dụng để gọi các pháp hành mang tính bí truyền của...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant