Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bảy Loại Vợ Trong Abidharma Đối Chiếu Với Luật Tạng

14 Tháng Sáu 201704:52(Xem: 6959)
Bảy Loại Vợ Trong Abidharma Đối Chiếu Với Luật Tạng
BẢY LOẠI VỢ TRONG ABIDHARMA
ĐỐI CHIẾU VỚI LUẬT TẠNG

Phước Nguyên

Bảy Loại Vợ Trong Abidharma Đối Chiếu Với Luật Tạng

 

I/ TỔNG QUAN

Phổ thông theo tinh thần kinh tạng Nikāya[1] đức Thế Tôn trình bày bảy loại vợ, đó là: “Vợ như kẻ giết người, vợ như kẻ trộm cắp, vợ như người chủ, vợ như người mẹ, vợ như người chị, vợ như người bạn, vợ như người nữ tỳ[2], điều này có thể đọc được ở trong kinh Bhariyā, thuộc  Abyākatavaggo (phẩmKhông tuyên bố) trong Anguttara Nikāya (Tăng chi bộ kinh) và chuyện tiền thân của nàng Sujāta trongKhuddaka Nikāya (Tiểu bộ kinh).

Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và các thư tịch liên hệ, qua đó để thấy được những điểm đặc biệt trong tục lệ hay văn hóa hôn lễẤn Độ thời đức Phật.

Về cách phân tích thành bảy loại vợ,  A-tì-đạt-ma Pháp uẩn túc luận[3] trình bày như sau:

“Một là, vợ được cưới theo nghi thức bưng bát nước;

Hai là, vợ được mua bằng tài vật;

Ba là, vợ cướp được do chinh phạt;

Bốn là, vợ sống chung do sự tự nguyện;

Năm là, vợ sống chung vì thức ăny phục;

Sáu là, vợ sống chung do hợp tác mưu sinh;

Bảy là, vợ sống chung thoáng chốc”[4].

Đem bảy loại vợ này so sánh với Luật tạng Bí-sô thuộc văn hệ Pāli, thì trong đó trình bày có mười hạng vợ, được kể như sau:

1/ Vợ được mua bằng tài sản.

2/ Vợ sống chung do tự nguyện.

3/ Vợ sống chung vì tài vật.

4/ Vợ sống chung vì y phục.

5/ Vợ được cưới theo nghi thức bưng bát nước.

6/ Vợ do nâng đỡ gánh nặng.

7/ Vợ hạng nữ tỳ.

8/ Vợ hạng nhân công/chấp tác.

9/ Vợ hạng tù binh.

10/ Vợ trong thoáng chốc”[5].

Lại đem đối chiếu với luật Thập tụng được truyền thừa bởi Sarvāstivāda (Nhất Thiết Hữu Bộ), luật này trình bày đàn ông có bảy loại vợ[6]so sánh với bản dịch Tây Tạng của bản Mūlasarvāstivāda-vinayavastu mà trước đây Nanjio[7] chỉ ra là giống với bản Hán dịch luật Thập tụng nhưng không hoàn toàn đồng nhất với luật Thập tụng trong Hán tạng như Csoma đã phân tích trong tạp chí Asiatic Research (Nghiên cứu Á châu)[8], thì bảy loại vợ ở trong bản dịch Tây Tạng này khá tương đồng với minh văn trình bày trong luật Thập tụng thuộc Hán tạng.

Cho đến ngày nay, thủ bản Sanskrit của Mūlasarvāstivada-vinaya đã được phát hiện tại tại Bamiyan và Gilgit[9], sau đó đã công bố rộng rãi, mà B. Mukherjee cho rằng có liên hệ chặt chẽ với sự truyền thừa luật tạng ở vùng Kashmir[10], hiện tại Mūlasarvāstivada-vinaya được liệt vào Buddhist Sanskrit Texts No. 16 [11], đoạn kinh văn tương cũng có đề cập đến bảy loại vợ như bản Hán dịch Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ tỳ-nại-da[12] của Ngài Nghĩa TịnhCăn bản thuyết nhất thiết hữu Bí-sô ni bộ tỳ-nại-da[13] kèm theo bài tụng tóm tắt[14] và thêm mười trường hợp tư thông.

II/ NỘI DUNG CHI TIẾT

1/ Vợ được cưới theo nghi thức bưng bát nước.

Các luận sư Abidharma gọi hạng vợ đầu tiên là ‘thọ thủy phụ 授水婦’, từ Pāli gọi là odapattakinī: vợ được cưới theo nghi thức bưng bát nước, dịch như vậy là phỏng dịch theo chú giải Luật tạng Pāli[15]  dịch sát từ odapattakinī có nghĩa là ‘người đàn bà bưng bát nước’.

Về loại vợ đầu tiên này, Pháp uẩn túc luận giải thích: “Vợ được cưới theo nghi thức bưng bát nước, nghĩa là cha mẹ của người con gái nhận bát nước của người nam, theo đó gả con gái cho người chủ bát nước kia, gọi là vợ được cưới theo nghi thức bưng bát nước”[16].

Hạng vợ này luật Thập tụng gọi ‘Thủy đắc’ và ghi nhận như sau: “Vợ cưới theo nghi thức bưng bát nước (thủy đắc 水得), nghĩa là người nam rót nước lên tay người nữ để xác nhận là vợ”[17].

So sánh với Luật tạng Bí-sô thuộc văn hệ Pāli cũng nói tương tự: “người nữ bưng bát nước, sau khi người nam trao cho bình nước, rồi nhận làm vợ”[18].

Về điểm này, Sớ giải (Ṭīkā) Luật tạng Bí-sô, Ngài Buddhaghosa (Phật Âm) giải thích rõ: “Người vợ bưng bát nước, sau khi cả hai người nhúng hai tay vào trong một bát nước nói rằng: Hãy gắn bó như là nước này, đừng có chia lìa’ thì nàng được chấp nhận là vợ theo phong tục”[19].

Bản Luật tạng Sanskrit Mūlasarvāstivāda-vinayavastu[20], do ngài Nghĩa Tịnh dịch Hán, tựa đề là Căn bản thuyết nhất hữu bộ Tỳ-nại-da, quyển 12[21] cũng nêu cụ thể: “Vợ cưới theo nghi thức bưng bát nước (Thủy thọ phụ 水授婦), nghĩa là không lấy tài vật, cha mẹ của người nữ lấy nước rót lên tay của người nữ và người nam kia, mà nói rằng: ‘Ta nay có con gái này cho làm vợ của ngươi, ngươi phải nên khéo tự phòng hộ, chớ để cho người khác có sự xâm phạm’, gọi là thủy thọ phụ”.

Và đem đối chiếu luật Tứ phần thuộc hệ Dharmaguptaka (Đàm-vô-đức bộ), ở đó có nói hơi khác: “Nô tỳ vì bị nước cuốn: được vớt lên khi bị nước cuốn[22], tức Tứ phần đọc thành chữ Pāli. dāsī: nữ tỳ, nô tỳ.

Cho nên, nhìn chung hạng vợ đầu tiên này được cưới theo tập tục hôn lễ của Ấn độ là người nữ phải bưng bát nước, rót nước lên tay hay nhúng tay vào bát nước như đã trình bày ở trên.

2/ Vợ được mua bằng tài vật.

Các luận sư Abidharma gọi hạng vợ thứ hai là Tài hóa phụ 財貨婦, từ này trong Luật tạng Bí-sô thuộc văn hệ Pāli gọi là dhanakkītā có nghĩa là mua (vợ) bằng tài sản hay tiền của.

Về hạng vợ này, Pháp uẩn túc luận trình bày: “Vợ được mua bằng tài vật, nghĩa là có người đàn ông nào, dùng hoặc nhiều, hoặc ít tài vật, mua người nữ dẫn về làm vợ mình, gọi là vợ được mua bằng tài vật”[23].

Luật tạng Bí-sô của Pāli giải thích: “Vợ được mua bằng tài sản, nghĩa là sau khi mua bằng tài vật, (người đàn ông) giữ (cô ta) sống chung (giống như là vợ)”[24].

So sánh với Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ tỳ-nại-da 12 (tr. 686b12) trình bày tương tự như luật Thập tụng 3 (tr. 18c16): “Vợ được mua bằng tài sản (索得 sách đắc), nghĩa là dùng hoặc ít hoặc nhiều tài vật tìm kiếm được (người con gái này), xác nhận là vợ v.v..”

Như thế, hạng vợ thứ hai này, được mua hay trao đổi bằng tài sản vật chất.

3/ Vợ cướp được do chinh phạt.

Các luận sư Abidharma gọi hạng vợ thứ ba là Quân lược phụ 軍掠婦, Pāli gọi là dhajāhaṭā phân tích ngữ học thành: dhaja + āhaṭa, có nghĩa là cướp được trong chiến tranh, khi dhajāhaṭā sử dụng như một adjective (tĩnh từ) có nghĩa là bị bắt trong chiến tranh, hay như một chiến lợi phẩm, cũng hàm nghĩa như một tù binh.

Về hạng vợ này, Pháp uẩn túc luận giải thích: “Vợ cướp được do chinh phạt, nghĩa là có người đàn ông nào, nhân bởi lúc chinh phạt nước khác, cướp lấy người nữ dẫn về làm vợ mình; lại có vua chúa, nhân vì đánh bại quân địch, lấy những thứ mình muốn, còn lại đều bỏ hết; hoặc có người đàn ông nào bằng thế lực, bắt lấy người nữ dẫn về làm vợ mình v.v.. các loại tương tợ như vậy, gọi là quân lược phụ”[25].

Luật tạng Bí-sô của Pāli cho rằng loại vợ này giống như hạng tù bình: “vợ cướp được trong chiến tranh, nghĩa là nàng bị đem về như một tù binh[26].

Sớ giải Luật tạng Bí-sô của Pāli, mục này Ngài Buddhaghosa giải thích dhajāhaṭā như sau: “dhajāhaṭā nghĩa là, khi đoàn quân dương cờ đi đến chiếm cứ một khu vực và nàng bị bắt đem về, một người nào đó nhận nàng làm vợ nên được gọi là dhajāhaṭā[27].

Luật Thập tụng của Sarvāstivāda gọi ‘phá đắc’ và giải thích rằng: “破得 phá đắc, nghĩa là khi đánh phá nước khác, đoạt được (người nữ) xác nhận là vợ. Hoặc lại do đánh dẹp phản loạn của nước mình, đoạt được (người nữ), gọi là phá đắc”[28].

Bản Hán dịch Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ tỳ-nại-da, Nghĩa Tịnh dịch là ‘王旗婦 vương kỳ phụ’ và giải thích gần như những điểm của luật Thập tụng[29].

Còn  luật Tứ phần thuộc hệ Dharmaguptaka gọi hạng vợ này là “biên phương đắc” tức đoạt được từ biên cương hay biên thùy, luật chép: “Nô tỳ được từ biên phương 邊方得: do sự cướp đoạt mà được”.[30]

Do đó, hạng vợ thứ ba này sống chung do bởi người nam cướp được trong lúc chiến tranh hay chinh phạt nước khác.

4/ Vợ sống chung do sự tự nguyện.

Các luận sư Abidharma gọi hạng vợ thứ tư là Ý lạc phụ 意樂婦, từ Pāli (=sanskrit) chandavāsinī: sự tự nguyện, phân tích ngữ học thành chandavāsī+inī, có nghĩa là vợ sống chung do tự nguyện, cũng hàm nghĩa là do thích ý, mong muốn.

Từ chandavāsinī này trong bản dịch Tây Tạng འདུལ་བ་གཞི Ḥdul-ba gshi (Luật bản sự) thuộc Tây Tạng Đại Tạng Kinh, thông trật đệ 1Ka-4ṅa, No. 01, trang 1b1-302a5, do dịch sư Tây Tạng Dpal-gyi lhun-po, và các vị dịch sư Ấn Độ: Sarvajñādeva, Vidyākaraprabha, Dharmākara, được hiệu đính  bởi: Vidyākaraprabha và Dpal-brtsegs, bản này dùng từ དད་སམ་དུ་འདུས་པ། dad sam du 'dus pa : ý hướng, tâm nguyện hay nguyện vọng, có gốc དད་: tin cậy, tin tưởng.

Từ 意樂 ý lạc, Sanskrit cũng nói là āśaya, thuộc loại từ hỗn chủng khó dịch, thành lập do động từ căn ā-√śī nên Huyền Tráng thường phiên âm là ‘a-thế-da’, có thể dịch là ước nguyện, ước muốn, sự vừa lòng, thích ý, tự nguyện, có khi cũng được dịch là thâm tâm.

Về hạng vợ này, Pháp uẩn túc luận giải thích: “Vợ sống chung do sự tự nguyện, nghĩa là có người nữ nào, đối với nhà người con trai, bản thân tin tưởng yêu thích, nguyện ở đó làm vợ, gọi là vợ sống chung do sự tự nguyện”.[31]

Luật tạng Bí-sô của Pāli gọi hạng vợ này là giữ gìn cho mục đích tham muốn: “hạng làm vợ được giữ lấy cho mục đích ham muốn[32], tức là người yêu giữ lấy người yêu sống chung.

Luật Thập tụng của Sarvāstivāda gọi hạng vợ này là ‘tự lai đắc’, luật ghi như sau: “Tự lai đắc自來得, nghĩa là có người nữ nào, do tự mình một lòng dính mắc ái lạc, đi đến dâng hiến, xác nhận là vợ”[33].

Bản Hán dịch Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ tỳ-nại-da gọi là ‘tự lạc phụ’ và giải thích rằng:  “tự lạc phụ 自樂婦, hạng làm vợ do thân hành đi đến chỗ người nam mình thích, nói: ‘Tôi vui lòng làm vợ của ông’, người nam đó liền dẫn về, gọi là tự lạc phụ.”[34]

Các vị truyền thừa Luật tạng thuộc Mahiśāsaka (Hóa địa bộ/Di-sa-tắc bộ) nói hạng vợ này sống chung do sở thích, cụ thểLuật Ngũ phần ghi nhận rằng: “tự nhiệm 自任, người nữ sống chung vì sở thích”[35] .

Còn các vị truyền thừa luật Tứ phần thuộc hệ Dharmaguptaka, nói rằng hạng vợ này tự nguyện làm tỳ nữ: “nói là tỳ 婢 (Tỳ nữ), nghĩa là Tự nguyện làm tỳ nữ: vui lòng làm tỳ nữ cho người khác”, điều này cũng có thể tìm thấy trong Luật tạng Bí-sô của Pāli: “vợ hạng nô tỳ, vừa là nô tỳ vừa là vợ”[36].

Sớ giải Luật tạng Bí-sô của Pāli về “vợ hạng nữ tỳgiải thích cụ thể như sau: “Nàng được thuê làm việc trong nhà. Người đàn ông không hài lòng với vợ của mình rồi san sẽ cuộc sống gia đình với nàng”.

Tổng quát mà nói hạng vợ thứ tư này sống chung do bởi tự nguyện, sở thích hay sự tin cậy.

5/ Vợ sống chung vì thức ăny phục.

Các luận sư Abidharma gọi hạng vợ thứ năm là Y thực phụ 衣食婦, Pāli gọi là paṭavāsinī, nghĩa là làm vợ sau khi cho áo.

Về hạng vợ này, Pháp uẩn túc luận giải thích: “Vợ sống chung vì thức ăny phục, nghĩa là có người nữ nào, đối với nhà người nam, do vì thức ăny phục, nguyện ở đó làm vợ, gọi là vợ sống chung vì thức ăny phục.”[37]

Luật tạng Bí-sô của Pāli không đề cập đến thức ăn chỉ đề cập đến y phục: “hạng làm vợ được giữ lại sau khi được cho y phục.”[38]

Sớ giải Luật tạng Bí-sô của Pāli nói như sau: “Vợ sống chung vì y phục: đề cập đến người đàn bà nghèo trở thành vợ sau khi nhận lấy y phục cho dù chỉ là tấm áo choàng.”

Luật Tứ phần thuộc hệ Dharmaguptaka, tương đương với hạng vợ này là hạng vợ làm nô tỳ để kiếm được y phục, luật chép:  “Làm nô tỳ để kiếm được áo: được trả giá bằng y phục”[39].

Các vị truyền thừa Luật tạng của Sarvāstivāda đồng quan điểm với Pháp uẩn túc luận, luật Ngũ phần ghi nhận rằng: “Y thực đắc衣食得, nghĩa là người nữ, không có khả năng kiếm sống, do bởi ăn mặc, đi đến dâng hiến, xác nhận là vợ, gọi là y thực đắc”[40].

Còn Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ tỳ-nại-da, Nghĩa Tịnh dịch hạng vợ này là ‘y thực phụ’, văn luật chép rõ: “衣食婦 y thực phụ, nếu có người nữ, đồng nữ nào, đi đến chỗ người nam kia, nói rằng: ‘Ông nếu chịu cung cấp cho ta ăn uốngy phục, ta sẽ làm vợ của ông’, đó gọi là y thực phụ”[41].

Như thế, hạng vợ thứ năm này sống chung vì để tìm cầu thức ăny phục.

6/ Vợ sống chung do hợp tác mưu sinh.

Các luận sư Abidharma gọi hạng vợ thứ sáu là đồng hoạt phụ 同活婦, trong Luật tạng Bí-sô của Pāli không có hạng vợ nào tương đương, thay vào đó là kammakārī: hạng vợ nhân công/chấp tác.

Về hạng vợ này, Pháp uẩn túc luận giải thích: “Vợ sống chung do hợp tác mưu sinh, nghĩa là có người nữ nào, đến nhà người nam, nói với người nam rằng: ‘Tôi đem thân này, nguyện xin phó thác cho nhau, những gì là của tôi, của anh, cùng chung không khác, hỗ tương sinh tồn, cho đến cuối đời, mong mỏi có con cháu, để sau khi chết thừa tự cúng tế’, gọi là vợ sống chung do hợp tác mưu sinh”[42].

Ngài Nghĩa Tịnh, trong Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ tỳ-nại-da dịch là ‘cộng hoạt phụ’, văn luật chép: “cộng hoạt phụ 共活婦, nghĩa là có người nữ, đồng nữ nào đi đến chỗ người nam, nói rằng: ‘Những gì là tài vật của ta và tài vật của ông, hợp chung lại một để cùng kiếm sống’, đó gọi là cộng hoạt phụ”[43].

Luật Tứ phần thuộc hệ Dharmaguptaka nói hạng vợ này do làm nghề nghiệp chung: “Nô tỳ do hợp tác: Đồng nghiệp 同業, cùng sinh hoạt nghề nghiệp chung nhưng chưa làm lễ để thành vợ chồng.”[44]

Còn Thập tụng luật được truyền tụng bởi Sarvāstivāda, thì nói rằng đây là hạng vợ do hiệp chung tiền của để sống: “Hiệp sinh 合生, nghĩa là có người nữ nào nói với người nam: ‘Tài vật của ông có, tài vật của ta có, nếu sinh con trai, con gái sẽ cung dưỡng ta, v.v..’ gọi là hiệp sinh”[45].

Về điểm này, Luật tạng Bí-sô văn hệ Pāli không đồng, hạng vợ này Luật tạng Bí-sô của Pāli gọi là “vợ nhân công”, văn luật ghi nhận như sau: “Vợ hạng chấp tác/nhân công nghĩa là vừa là nhân công vừa là vợ”[46].

Nhìn chung, trừ Luật tạng Bí-sô văn hệ Pāli ra, hạng vợ này sống chung vì mục đích sinh tồn hay vì hiệp chung tài sản để sinh sống.

7/ Vợ sống chung trong thoáng chốc.

Các luận sư Abidharma gọi hạng vợ thứ cuối cùng này là Tu du phụ 須臾婦, từ ‘tu du’ Sanskrit gọi là muhūrta, Pāli gọi là muhutta, có nghĩa là thời gian rất ngắn, một thoáng, một lát, một thoáng qua.

Bản dịch Tây Tạng འདུལ་བ་གཞི Ḥdul-ba gshi (Luật bản sự) dùng ཡུད་ཙམ་ yud tsam, trong tiếng Tây Tạng từ ཡུད་ཙམ་ yud tsam dùng để chỉ cho 1/30 thời gian của một ngày, được dịch Anh là: moment/ instant, có nghĩa là chốc lát hay thoáng chốc, dùng để phiếm chỉ thời gian rất ngắn.

Về hạng vợ này, Pháp uẩn túc luận giải thích: “Vợ sống chung trong thoáng chốc, nghĩa là có người nữ nào yêu thích đối với người nam, tạm thời làm vợ, gọi là vợ sống chung trong thoáng chốc”[47].

Luật tạng Bí-sô của Pāli ghi nhận như sau: “Vợ trong chốc lát: nghĩa là đề cập đến cuộc tình thoáng qua.”[48]

Luật Thập tụng giải thích là vợ chồng do gặp nhau trong một thoáng qua: “tu du đắc 須臾得, nghĩa là cùng gặp gỡ nhau trong một lát, đó gọi là tu du đắc”[49].

Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ tỳ-nại-da gọi là làm vợ tạm thời, ngài Nghĩa tịnh dịch là “tu du”, đồng với cách dịch của ngài Huyền Tráng trong Pháp uẩn túc luận, văn chép: “tu du phụ, nghĩa là người đó tạm thời làm vợ, đó gọi là tu du phụ”[50].

Tóm lại, hạng vợ này sống chung chỉ trong thoáng chốc hay nhất thời.

III/TỔNG KẾT.

Như vậy theo Luật tạng Bí-sô của Pāli ghi nhận có mười loại vợ, mà sáu hạng tương đồng với Pháp uẩn túc luận, còn lại bốn  hạng khác không tương đồng với luận này, đó là: 

- Vợ hạng nữ tỳ (như đã giải thích ở mục 4)

- Vợ như nhân công (như đã giải thích ở mục 6).

- Vợ do nâng đỡ gánh nặng, Luật tạng Bí-sô của Pāli nói như sau: “Vợ do nâng đỡ gánh nặng nghĩa là sau khi lấy xuống tấm đệm lót ở đầu (để mang vác), (người đàn ông) giữ (cô ấy) sống chung (giống như vợ)[51].  Phần sớ giải Luật tạng Bí-sô của Pāli giải thích chi tiết: “vợ do nâng đỡ gánh nặng, nghĩa là cô ấy là người kiếm củi, v.v... Sau khi lấy xuống từ đầu của cô ấy tấm đệm lót để đội vật nặng rồi đem về sống chung ở trong nhà.”

-Vợ sống chung vì tài vật: “Vợ sống chung vì tài vật nghĩa là sau khi biếu xén tài vật, (người đàn ông) giữ (nàng) sống chung (như là vợ).”[52]

Như vậy, qua các hạng vợ trên chúng ta thấy được phần nào tập quán về hôn lễẤn độ thời Phật khá đa dạng, Thế Tôn cũng dạy rằng đối với những hạng người nữ của nguời khác, tức những hang vợ vừa trình bày ở trên và những người nữ được giám hộ bởi người khác, mà bất kỳ người đàn ông nào “ở nơi không được phép hành, hành phi đối tượng mà lại giao hội, cho đến vợ mình, hành nơi phi đạo, phi lễ tiết, phi xứ, và phi thời, đều gọi là tà hành trong các dục”[53].


Vô trụ xứ am, mùa An cư Đinh Dậu
Phước Nguyên

[1] Nikāya do động từ Ni-kāya: thân, bộ phận, phần, hiệp tập thành bộ loại.

[2] Định cú Pāli, A. 10. Bhariyāsuttaṃ: Satta kho imā, sujāte, purisassa bhariyāyo. Katamā satta? Vadhakasamā, corīsamā, ayyasamā, mātāsamā, bhaginīsamā, sakhīsamā, dāsīsamā.

[3] Dharmaskandha, 阿毘達磨法蘊足論  A-tì-đạt-ma  Pháp uẩn túc luận, truyền thuyết Tôn giả đại Mục-kiền-liên soạn, Huyền Tráng dịch, 12 quyển. T26 No 1537, nơi khác nói là do Ārya-Śāriputra, tức Tôn giả Xá-lợi-phất soạn. Bản Skt. hiện có thể đọc ở Fragmente des Dharmaskandha. Ein Abhidharma-Text in Sanskrit aus Gilgit, Dietz, Siglinde und Siglinde Dietz: Verlag: Vandenhoeck & Ruprecht, (1984). Bản dịch Tây Tạng: chos kyi phung po'i mdo ཆོས་ཀྱི་ཕུང་པོ་, trong Narthang Kanjur: Mdo sde, Delhi, volume 66, mdo sde (wa), Pages 79 – 94.

[4] Xem bản dịch Việt Pháp uẩn túc luận, Phước Nguyên dịch và chú thích, đối chiếu với bản Sansktit và Tây Tạng dẫn ở trên, thuộc Phẩm 1. Học xứ, mục điều khoản tà hành trong các dục. Cf. Hán dịch, Pháp uẩn 1, tr. 0456b.

[5] Định cú Pāli, (vin. iii, tr.139): Dasa bhariyāyo – dhanakkītā chandavāsinī bhogavāsinī paṭavāsinī odapattakinī obhaṭacumbaṭā dāsī ca bhariyā ca kammakārī ca bhariyā ca dhajāhaṭā muhuttikā.

[6] Thập tụng 3, tr. 18c14: 索得 sách đắc, 水 得 thủy đắc, 破得 phá đắc, 自來得 tự lai đắc,以衣食得 dĩ y thực đắc, 合生得 hợp sanh đắc, 須臾得 tu du đắc.

[7] A Catalogue of the Buddhist Tripitaka, Authors, Bunyiu Nanjio, Lokesh Chandra. Publisher, Lokesh Chandra, 1980

[8] Bagchi, S ed., Buddhist Sanskrit Texts No. 16, Mūlasarvāstivāda-vinayavastu, Darbhanga: The Mithila Institute, 1967.

[9]  Cf. Journal Asiatique, v.220, 1932.

[10] Về chi tiết xin xem: Shih-sung-lu and the Reconstruction of the Original Sarvāstivāda Vinaya, A Research Journal of the Department of Buddhist Studies, University of Delhi, Vol XV, March, 1991, biên tập Sanghasen Singh. p. 46 – 51.

[11]  Asiatic Research, Vol. xx, see pp. 45ff.

[12] Quyển 12, tr. 0686b15: thủy thọ, tài phinh, vương kỳ, tư lạc, y thực, cộng hoạt, tu du.

[13] Quyển 5, T23n1443, tr. 0932a01.

[14]  Tụng tóm tắt, T24n1459, tr.0624b07.

[15]  Vin.A. iii, 555.

[16] Xem bản dịch Việt, Pháp uẩn, ibid., phẩm 1. Học xứ.

[17] Thập tụng 3, tr. 18c17: 水得者, 若人捉手以 水灌掌與女作婦, 是名水得.

[18] Định cú Pāli (Vin. iii. tr.139): odapattakinī nāma udakapattaṃ āmasitvā vāseti.

[19] Cf. Sāratthadīpanī-ṭīkā-1, của Pāli Text Society (PTS).

[20] Dutt, Nalinaksa ed., Gilgit Manuscripts, Vol III. Delhi : Sri Satguru Publications,1984. Cf. Bagchi, S ed., Buddhist Sanskrit Texts No. 16 Mūlasarvāstivāda-vinayavastu. Darbhanga: The Mithila Institute, 1967.

[21] Căn bản, ibid., tr.0686b23tt.

[22] Tứ phần 1, nói hơi khác, (tr.583b)

[23] Xem bản dịch Việt, Pháp uẩn, ibid., phẩm 1. Học xứ.

[24] Định cú Pāli (Vin. iii. tr.139): Dhanakkītā nāma dhanena kiṇitvā vāseti.

[25] Xem bản dịch Việt, Pháp uẩn, ibid., phẩm 1. Học xứ.

[26] Định cú Pāli (Vin. iii. tr.139): Dhajāhaṭā nāma karamarānītā vuccati.

[27] Định cú Pāli, Vin.A..iii, 555 (Ṭīkā).

[28] Thập tụng 3, tr.18c18.

[29] Căn bản 12 ibid, tr.0686b23.

[30] Tứ phần 1, tr. 583b.

[31] Xem bản dịch Việt, Pháp uẩn, ibid., phẩm 1. Học xứ.

[32] Định cú Pāli (Vin.iii. tr.139): chandavāsinī nāma piyo piyaṃ vāseti.

[33] Thập tụng 3, tr. 18c19-c21.

[34] Căn bản 12, ibid. tr. 686b27.

[35] Ngũ phần 2, tr.0012c13.

[36] Định cú Pāli (Vin.iii.tr.139): dāsī ceva hoti bhariyā ca.

[37] Xem bản dịch Việt, Pháp uẩn, ibid., phẩm 1. Học xứ.

[38]  Định cú Pāli (Vin.iii.tr.139): paṭavāsinī nāma paṭaṃ datvā vāseti.

[39] Tứ phần 1, tr. 583b.

[40] Thập tụng 3, tr.18c21.

[41] Căn bản 12, ibid., tr.932a17.

[42] Xem bản dịch Việt, Pháp uẩn, ibid., phẩm 1. Học xứ.

[43] Căn bản 12, tr. 686c02.

[44] Tứ phần 1, tr. 583b.

[45] Thập tụng 3, tr. 18c23.

[46] Định cú Pāli  (Vin.iii.tr.139):  Kammakārī nāma kammakārī ceva hoti bhariyā ca.

[47] Xem bản dịch Việt, Pháp uẩn, ibid., phẩm 1. Học xứ.

[48] Vin.iii.tr.139: Muhuttikā nāma taṅkhaṇikā vuccati.

[49] Thập tụng 3, tr.18c24.

[50] Căn bản 12, tr.686c04.

[51]  Vin.iii.tr.139: Obhaṭacumbaṭā nāma cumbaṭaṃ oropetvā vāseti.

[52] (Vin.iii.tr.139): Bhogavāsinī nāma bhogaṃ datvā vāseti.

[53] Xem bản dịch Việt, Pháp uẩn, ibid., phẩm 1. Học xứ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30396)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30663)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21017)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20202)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19437)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24393)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30657)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15688)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27787)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19767)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15579)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23252)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23568)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17530)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15694)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21876)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 38004)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22173)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23254)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21352)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28420)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32550)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25180)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34685)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22945)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27719)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31306)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13599)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25183)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27833)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22091)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20733)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22214)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27136)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24149)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21899)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14714)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23155)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24029)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21107)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14201)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19940)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22506)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14075)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28044)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22820)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28206)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 10988)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28512)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31574)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26175)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14957)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28047)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7443)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25357)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20700)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21131)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12238)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11913)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12803)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant