Nhìn thẳng vào cuộc sống hôm nay, hầu như mọi mặt đều tăng tốc, sự phát triển từ hình thứcvật chất đến tâm lýtinh thần của con người. Thế nhưng, sự hiển lộ bên ngoài lẫn với bao dáng vẻ sắc màu của những hiện tượng sự vật, thì ta lại thấy không ít những nỗi đời còn nhiều nghiệt ngã đau thương, thô kệt của những tâm ý khô cứng, bất an, sợ hải và cả những lòng tham ác tàn bạo, gây không ít bao nhiễu nhương cho tự thân, gia đình và xã hội,
Do đó, hạnh phúc và bình yên được Đức Phật nói đến, điều ấy chúng ta thấy không phải là một ngẫu nhiên.
Nhân một hôm, Gia chủ Anathapindika (Cấp Cô Độc) đến đãnh lễ Phật, sau đó Đức Phật liền nói với gia chủ như sau :
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủthọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ? : LẠC SỞ HỮU, LẠC THỌ DỤNG, LẠC KHÔNG MẮC NỢ, LẠC KHÔNG PHẠM TỘI".
Trước hết, Đức Phậtgiới thiệu đến bốn sự việc mà một khi bắt đầu chạm vào sự sống, sự tồn tại của con người, một khi mà con người có được cơ hội làm ra được của cải, hay những phương tiệnthọ dụng khác để phục vụ cho sự sống được ngang qua bao ước muốn tìm cầu.
"Nầy gia chủ, thế nào là lạc sở hữu ? Ở đây, nầy gia chủ, tài sản của người thiện nam tử thâu hoạch được do nổ lực tinh tấn, tích lũy được do sức mạnh cánh tay, do mồ hôi đổ ra đúng pháp, thâu hoạch đúng pháp. Nghĩ về điều ấy, vị ấy được lạc, được hỷ"
Không xa xôi mênh mông, không mơ hồphi thực, với lời dạy của Phật :
" Đến để mà Thấy, đến để mà Nghe và đến để được Cảm ThọSự Thật ".
Đức Phật luôn nghĩ đến hạnh phúc và an lạc cho chúng sanh ngay trong hiện tại. Nhất là xã hộichúng ta đang là ngày hôm nay, một khi đã hiển bàycung ứng khá nhiều về sự ăn, sự mặc, chốn ở và những điều kiệnphục vụ khác.v.v... Thì lòng tham ác sẽ bén rể và tự phụ của con người được nâng lên từ "dục thủ, dục tầm cầu".
Do đó, người con Phật cần phảiý thứctỉnh giácnhận ra rằng: "Tài sản thâu hoạch một cách đúng pháp" chỉ có thâu hoạch đúng pháp do từ công sức chính mình làm ra, thì mới không thấy sự hổ thẹn nơi lương tâm và lương tri của mình.
Bằng trái lại, là một việc làm vừa đem đến hại mình, vừa đem đến hại người, đem đến hại cả hai, cùng dự phần vào phiền não, gây tổn hại cho gia đình và xã hội, nguyên nhân từ việc làmphi pháp, phi chơn mà có.
"Lại nữa, nầy gia chủ, thế nào là lạc thọ dụng ? Nầy thiện nam tử, khi thọ dụng những tài sản được thâu được một cách đúng pháp và làm các việc phước đức. Nghĩ về điều ấy, vị ấy được lạc, được hỷ "
Chúng ta thấy, Đức Phật còn tiến xa hơn từ lời dạy đầu, nếu như đã có tài sản một cách đúng pháp chơn chánh, thì khi xử dụng vào cuộc sống cũng được an vui từ những thành quả lao động của mình, thấy được giá trịích lợi và trân quí những điều mình có được, sống hạnh phúc, trong sáng, lành mạnhchân thật, người đệ tử Phật sẽ xử dụng tài sản ấy vào việc bố thí, giúp đỡ, ban tặng, biếu cho, hoặc làm những việc phước đức khác cũng được điều lợi ích giao cảm chân thiện, tránh được lời người xưa : " Nhân phi nghĩa bất giao, vật phi nghĩa bất thủ".
Đành rằng: Hạnh phúc, bình yên là những điều ước muốn, cầu vọng tất nhiên của con người, sự tìm cầu ấy cũng phải qua những đánh đổi trước bao duyên cảnh cuộc đời, tất cả mọi việc được nói lên nguồn sống an lạc vẫn phải từ lòng chinh phục những gian tham, những ác tư duy.v.v...
Bởi :
" Dễ làm các điều ác
Dễ làm điều tự hại
Còn việc lành, việc tốt
Thật tối thượng khó làm" (Kinh Pháp Cú. 163.)
Nhu cầu và khát vọng của con người khó mà được thỏa mãn, đã có biết bao sự rối ren, bế tắt, nguy hại, những độc tố của Tham Sân Si gây ra cho tự thân, gia đình và xã hội... nguyên nhân cũng từ việc làm bất chính, thu hoạch và xử dụng tài sản bất chính, thọ dụngvô độ và hoang phívô ích. Còn nếu nhận thức đúng bản chất trong cuộc sống qua các hiện tượng là "Vô Thường, Khổ, Vô Ngã", lo tu tậpchuyển hóa nội tâm, trau dồi đạo đức, kết nối tình thương yêu, lạc quan vui vẽ, thì nguồn an lạc hạnh phúc vẫn luân được tươi mát, thấm đẫm từ tâm ý nơi chính mình và cho cả cuộc đời.
"Lại nữa, thế nào là lạc không mắc nợ ? Ở đây nầy gia chủ, vị thiện gia nam tử không mắc nợ ai một điều gì, ít hay nhiều. Nghĩ về điều ấy, vị ấy được lạc, được hỷ"
Thông thường, có người cho rằng: vì nghèo khó nên mới bị mắc nợ, vay trước trả sau, tất bật với bụi đời những sớm chiều sương gió, với tháng ngày đáo hạn, với bao tiền lời phải trả, với sự hối thúc của chủ nợ.v.v... Ta thấy, đôi khi có những ai đó qua hình thức trông như giàu có bảnh bao, nhưng kỳ thật chỉ là lớp che giấu phía sau đó không biết bao nhiêu chuyện lo toan, sầu muộn, đó là những con nợ,
Nhưng trong đời, phải đâu chỉ có nợ tiền thôi đâu ! " Không mắc nợ ai một điều gì ít hay nhiều ..." Nó hàm nghĩa cho chúng ta thấy rằng : Không bị nợ về sự lừa dối, gian trá, cướp giựt của người, không ỷ thế hiếp cô, không mưu toan kế sách lợi mình hại người một cách bất chính, không biết tôn trọng những thiện pháp do Đức Phật hay các bậc Thánh ca ngợi, chỉ vì bao lợi dưỡng đời thường, mà tâm hồnthèm khát, tham vọng điên rồ bởi các dục sai xử, mà ta phải bị rơi vào những hạnh nghiệp bất thiện, để rồi chịu bao vay trả cho từng kiếp sống đi qua đầy nhiệt não của trần tâm.
Còn hơn thế nữa, ta nợ với cuộc đời biết bao điều hứa hẹn kỳ vọng nơi ta, khi ta có đủ điều kiện và cơ hội. Nhưng thế rồi, mặc cho ngày tháng trôi qua tan tành những điều khả thi, bởi do ta thiếu chân tình với những điều thiện sự, chung qui do vì ta không có sợ hải tội lỗi, ta bị gục ngả với chính ta khi ta đi về mọi phía của cộc đời.
Nếu như ngày nào ta còn tà tham, dục tham, đê tiện, ích kỷ, thấp kém.v.v... Thì ngày đó ta phải còn cái nợ với cuộc đời và cả chính ta nữa. Vì lý do đó, mà Đức Phật đã dành cho chúng ta những lời khuyên dạy, cần nên có một nếp sốngchân thật, đạo đức, tình thương và ban tặng, để được xanh mầm an lạc và hạnh phúc ngay trong hiện tại, hầu tránh đi chuyện vay trả oán thù và những hạnh nghiệp xấu trong đời.
"Lại nữa, nầy gia chủ, thế nào là lạc không phạm tội ? Ở đây nầy gia chủ, vị Thánh đệ tửthành tựuthân hành không phạm tội, thành tựu khẩu hành khôngphạm tội, thành tựu ý hành khôngphạm tội. Nghĩ về điều ấy, vị ấy được lạc, được hỷ "
Chúng ta càng nhìn thẳng vào cuộc sống đầy biến độngphức tạp như hôm nay, không thể phủ nhận về mặt tiến bộhiện đại từ nhiều phía, cái đẹp đẽ của muôn sắc màu được giới thiệu đến bao nhiêu, thì cũng không ít bao điều lo ngại, ưu tư đến với gia đình và xã hội bấy nhiêu, như : nạn bạo hành cướp giựt, trộm cắp, lừa đảo, tội phạmsát hại ngày càng gia tăng, nhân tính, đạo đức, giáo dục hiện nay đến lúc báo động, nhìn ra thế giới bên ngoài đang cháy dần ngòi nổ chiến tranh, sự tranh chấp bờ cõi, biển đảo, nạn khủng bố và ý thứctôn giáo, nạn kỳ thị chủng tộc và những ý tuởng di biệt… diễn biến không ngừng, những thiên tai siêu bão, bão bùn, lũ lụt tàn phá.v.v...
Tất cả đều do con người, chính con người đã làm nên tội lỗi và nghiệt ngã, trong khi ấy, vẫn không ít con người muốn thiết lậpduy trì một nếp sốnglành mạnh, đạo đức hòa bình để đem lại cho cuộc sống phồn thịnh, hạnh phúc, an lạc. Do đó, ba nghiệp (Thân Khẩu Ý) khéo được tu tập thuần thiện, dễ xử dụng, không phạm tội, có đời sốngtrong sáng, chân thật, đó là sự biểu hiện bình yên, niềm vui lớn, ích lợi lớn cho mình và cho mọi người.
Tóm lại, Đức Phật đến với chúng ta không ngoài những lời dạy thiết thực, ích lợi, giản dị và sâu lắng trong cuộc sống, cho dù bất cứ ở đâu, không gian và thời gian nào. Với mục đích lời dạy là đem lại sự an lạc hạnh phúc cho chúng sanh, chư thiên và loài người, giúp cho chúng tanhận biết được sự KHỔ và phương phápchấm dứt KHỔ. Nếu như có của cải và thọ dụng, xử dụng một cách đúng pháp chân chính, biết đủ, từ bỏ mọi dục tham, không để mắc nợ gì, dù ít hay nhiều là điều cần thiết có được an lạc và hạnh phúc cho người đệ tử Phật. Nhưng quí báu hơn thế nữa chính là có sự chuyển hóathân tâm được nhu nhuyến, thuần thiện từ thân, lời nói và ý nghĩ, không gây tác hại, não hại cho tự thân, gia đình và cho cả xã hội.
Hôm nay, chúng ta lại chuẩn bị kết thúc chuỗi thời gian trong năm, bắt đầu chuyển mình bước dần đến ngưõng cửa của năm mới (Quí Tỵ - 2013). Mới đây, nay đã qua thập niên của thế kỷ 21, thế kỷ vươn lên tầm cao của khoa học, kỷ thuật, nhưng cũng là thế kỷ tập trung hướng về nguồn mạch tâm linh siêu vượt ngàn đời bất tận, để trong mỗi chúng ta được thong dong theo dòng sinh lộ đạo đứcvi diệu, mà cũng là sự tận hưởng nguồn sinh lực tươi mát của ý vịmùa xuân trong cuộc sống muôn trùng. Để kết thúc bài viết, chúng ta cùng đọc lại lời dạy của Đức Phật :
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
Phật giáodu nhậpNhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
Hoa SenDiệu Pháp là giáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạchgiải thíchDiệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thốngtư tưởngtriết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểutriết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thànhquốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con người là một sinh thể gần như bằng không.
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
Thần tài trong Phật giáo, cụ thể ở Phật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnhBố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
Thời Đức Phậttại thế, Ấn Độ có ít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
Phát huy sự chú tâmđúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thứcđạt được một mức độ tập trung thật cao...
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dườngđức Phật...
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏiluân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh ĐiểnPhật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
Đa sốPhật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sưNhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.
Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô A Di Đà Phật