Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tổng Luận: Năm Thủ Uẩn

06 Tháng Bảy 201705:04(Xem: 7215)
Tổng Luận: Năm Thủ Uẩn
Tổng Luận: Năm Thủ Uẩn

Phước Nguyên

Tương Ưng Và An Trụ

I/ĐỊNH NGHĨA

I.1.Định nghĩa uẩn

Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn[1].

Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha, Hán phiên âm: Tắc-kiện-đà 塞健陀, dịch là tích tụ, loại biệt, tức là năm loại khác nhau về các pháp hữu vi (saṃskṛta).

Từ skandha, Hán dịch là uẩn với ý nghĩa: tích tập. Theo A-tì-đạt ma Câu-xá luận[2], chữ ‘uẩn’ có ba ý nghĩa:

-Hòa hợp tụ: Nhiều yếu tố tích nhóm một chỗ.

-Kiên: Kiên là vai. Vai có thể mang gánh nặng (kāryabhārodvahana) việc phải làm, “chúng sinh mang gánh nặng của uẩn mà đi qua những lối hiểm nghèo của sinh tử[3].

-Chia đoạn: cái khả phân (praccheda), bộ phận, phần được chia cắt. Yaśomitra nói: “Cái khả phân, là cái có hạn lượng, có giới hạn, có hạn kỳ[4].

Phẩm Phân biệt giới của luận Câu-xá cũng giải thích:

rāśyāyadvāragotrārthāḥ skandhāyatanadhātavaḥ/”[5]:

“Uẩn, xứ và giới,

có nghĩa là tụ, sinh môn và chủng tộc.”

Như vậy, ở đây chữ ‘skandha: khối, tích tập, chứa nhóm v.v..

Chúng ta có thể xem kinh Tạp A-hàm thuộc Đại Chánh Tân Tu, trang 15a, giải thích tường tận về sắc uẩn.

Hoặc chúng ta có thể đọc lại đoạn kinh văn Pāli tương đương:

Yaṃ kiñci bhikkhu rūpaṃ atītānāgatapaccuppannam ajhattaṃ vā bahiddhā vā oḷālikaṃ vā sukhumaṃ vā hiṇaṃ vā paṇitaṃ vā yaṃ dūre santike vā[6].

“Những gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong, hoặc ngoài, hoăc thô, hoặc vi tế, hoặc thấp kém, hoặc vi diệu, hoặc xa, hoặc gần, tất cả được tổng hợp làm một và gọi đó là sắc uẩn”.

A-tỳ-đạt-ma Đại Tì-bà-sa luận, giải thích uẩn có bốn nghĩa: “Uẩn có nghĩa là tụ ; hiệp ; tích 積; lược 略.[7]

Vì từ Sanskrit ở đây là rāśi, với ý nghĩa là: đống, tụ, tích tụ…

Trong Madhyāntavibhāga-bhāṣya[8], có bài tụng về nghĩa của uẩn: “anekatvābhisaṃkṣepaparicchedārtha āditaḥ”, mà Biện trung biên luận chữ Hán dịch là: “非一及總略, 分段義名蘊: phi nhất cùng tổng lược/phân đoạn là nghĩa uẩn” [9]. Theo đây, uẩn có ba nghĩa:

-Phi nhất (anekatva): không phải một yếu tố.

-Tổng lược (abhisaṃkṣepa): tất cả gom thành một khối.

-Phân đoạn (pariccheda): phân nhóm, tùy theo đặc tính khác nhau của chúng.

Từ skandha, còn được dịch là Ấm 陰, với ý nghĩache đậy, đôi khi skandha còn được dịch là Chúng 眾, hoặc cũng dịch là Tụ 聚 v.v..

I.2.Thủ uẩn

“Thủ uẩn 取蘊”, Sanskrit: upādānaskandhā, cũng gọi là thủ ấm 取陰. Câu-xá luận định nghĩa:

 “/8a/ Hữu lậuthủ uẩn...*

 Ở đây, nó được xác định như thế nào? Các thủ uẩn đều được xác định là uẩn.

Nhưng cũng có các uẩn mà không phải thủ uẩn. Đó là các hành vô lậu. Trong đây, các thủ chính là các phiền não.

Hoặc uẩn từ thủ phát sinh, nên gọi là thủ uẩn. Như nói: lửa sinh ra từ trấu, từ rơm nên gọi là lửa trấu, lửa rơm.

Hoặc uẩn lệ thuộc thủ nên nói là thủ uẩn. Như bề tôi trực thuộc Vua nên nói là bề tôi của Vua (Vương thần).

Hoặc uẩn sinh thủ nên nói là thủ uẩn. Như cây sinh ra hoa, quả nên nói là cây hoa, cây ăn trái.”[10]

Như vậy, chữ ‘thủ’ trong năm thủ uẩn, đồng nghĩa với “thủ (upādāna)” trong 12 chi duyên khởi, phân tích thành động từ: upā-√dā, bám chặt, vin vào, mà chấp làm tự ngã.

A-tỳ-đạt-ma Pháp uẩn túc luận (trang 511) định nghĩa: Thủ là giai đoạn tăng trưởng mãnh liệt của Khát ái.”

Vậy thủ ở đây được hiểu là bám chặt vào bất cứ cái gì mà quá trình Khát ái đã mãnh liệt săn đuổi. Nên ngài Vasubandhu nói Thủ tức là phiền não là do nghĩa này.

II/PHÂN TÍCH NĂM UẨN

1.Sắc uẩn (Rūpa-skandha)

Chữ sắc 色, Sanskrit: rūpa: khối vật chất, có hai động từ căn: 1/√rūp: tạo hình, khung đỡ;[11] 2/ √rup: đau đớn, vỡ tan[12]

Có thể đọc lại đoạn kinh sau để thấy ý nghĩa sắc uẩn:

Kiñca bhikkhave rūpaṃ vadetha. ruppatīti kho bhikkhave tasmā rūpan ti vuccati kena ruppati. sītena[13]

“Này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là sắc? Nó băng hoại, này các Tỷ-kheo, vì vậy nó được gọi là sắc. Bị băng hoại bởi cái gì? Bởi đá, v.v…” .

Theo ngữ nguyên này, chữ rūpa, do động từ rump [lump]: tan vỡ. Ngài Sthiramati trong Quảng nuẩn luận định nghĩa:

Sắc uẩn là gì? Đó là bốn đại chủng và những gì được dồn lại từ bốn đại chủng (đại chủng sở tạo)”.

Ngài Vasubandhu giải thích trong luận Câu-xá:

Sắc uẩn là gì?

(9a-b) Sắc chỉ là năm căn       

Năm cảnh và vô biểu**

Giải thích rằng: Năm căn: nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt cănthân căn. Năm cảnh: tức cảnh giới của năm căn, nhãn . . .; đó là sắc, thanh, hương, vị và xúc. Vô biểu: là vô biểu sắc. Chỉ căn cứ vào số lượng này để thành lập tên gọi sắc uẩn.”[14]

*Giải thích thuật ngữ:

Sắc, tức khối vật chất được kết cấu, tạo hình lại theo nguyên lý không bền vững cho nên gọi là sắc uẩn.

Năm căn, chữ căn tiếng Sanskrit là indriya, tức bộ máy hoạt động. Theo Vasubandhu: căn là thế lực ưu việt khiến phát triển; phân biệt với ‘căn’ mà Sanskrit viết là mūla: rễ cây.

Định nghĩa bởi luận Kośa ii: kaḥ punar indriyārthaḥ idi paramiśvarye. tasya indantīti indriyāṇi. ata ādhipatyārtha indriyārthaḥ. “Căn là gì? Do động từ căn √id (= ind: đốt cháy) có nghĩa là ưu thế và chủ động. Chúng nó đốt cháy, do đó chúng nó là căn”. Căn như vậy có nghĩa là sự chi phối.

Theo bản Hán dịch Câu-xá luận 3, trang 13b12, Huyền Tráng dịch: 最勝自在光顯名根由此總成根增上義. Căn, theo đó, có ba nghĩa: tối thắng, tự tại, tăng thượng.

Năm cảnh[15], năm đối tượng của năm căn, tức sắc, thanh, hương, vị và xúc. Chữ “cảnh”: đối tượng, cũng gọi là “trần”.

Vô biểu, tuy lấy sắc nghiệp làm tính như hữu biểu, nhưng nó không hiện bày ra ngoài khiến cho người ta nhìn thấy nên nói là vô biểu. Tóm lại, vô biểu là sắc hoặc thiện, hoặc bất thiện sinh ra từ biểu nghiệp, hay từ định.

2. Thọ uẩn (Vedanā-skandha)

Định nghĩa bởi luận Kośa, i. 14: vedanā’ nubhavaḥ, thọ là sự cảm nghiệm (Thọ lãnh nạp tùy xúc 受領納隨觸).

Định nghĩa này cũng được Sthiramati đề cập: vedanā anubhavasvabhāvā, thọ, có tự thể là cảm nghiệm.

Đoạn văn tương đương cũng tìm thấy trong văn hệ Pāli: “vedayatī‟ti kho bhikkhave tasmā vedanā ti” nó cảm nhận, do đó nó được nói là thọ.

Ngài Sthiramati định nghĩa trong Đại thừa Quảng ngũ uẩn luận (trang 0851b15): “Thọ uẩn là gì? Thọ là sự cảm nhận của thức. Thọ có ba loại: lạc thọ, khổ thọ và thọ không lạc không khổ”.

-Thuận chánh lý 2 (trang 338c26): Thọ có hai, 1. chấp thủ thọ, tất cả tâm và tâm sở đều cảm nghiệm cảnh sở duyên riêng biệt của nó; 2. tự tính thọ, sự cảm nghiệm tùy theo xúc, là đặc tính riêng biệt của thọ.

Theo luận Câu-xá, thọ uẩn có ba loại: lạc, khổ, bất khổ bất lạc. Lại nữa, thọ được chia thành sáu loại cảm nhận của thân (lục thọ thân) - cảm nhận sinh ra do nhãn thức tiếp xúc với sắc trần; cho đến cảm nhận sinh ra do ý thức tiếp xúc với pháp trần.

3. Tưởng uẩn (saṃjñā-skandha):

Ngài Sthiramati trong Đại thừa Quảng ngũ uẩn luận, trang 0851b20 định nghĩa: “Tưởng uẩn là gì? Là tác dụng tâm lý nắm bắt thật nhiều các tướng trạng cảnh giới, nó làm tăng thêm sức mạnh nắm bắt”.

Ngài Vasubandhu giải thích trong luận Câu-xá (k.14cd): “saṃjñā nimittodgrahaṇātmikā, tự thể của tưởng là nắm bắt tín hiệu” (tướng thủ tượng vi thể 想取像為體).

Kinh tạng Pāli cũng định nghĩa tương đương: sañjānātī ti kho bhikkhave tasma saññā ti vuccati, nó tri giác (tri nhận), do đó nó được nói là tưởng.”

Tóm lại, Tưởng uẩn lấy sự chấp thủ ảnh tượng làm thể, tức là chấp thủ các tướng xanh vàng, dài ngắn, nam nữ, oán thân, khổ vui v.v... Tưởng cũng chia thành sáu loại tưởng thân, y cứ theo cách nói của thọ để hiểu.

4. Hành uẩn (saṃskāra-skandha):

Hành tức ý chí, cái động lực thúc đẩy tạo nghiệp.

Tiếng Sanskrit gọi là saṃskāra, có rất nhiều nghĩa.

Nếu nó đi từ động từ căn sa-√skri, thì có nghĩa là đặt vào với nhau, liên kết với nhau.

Nhưng nếu nó đi từ động từ căn sas-√kri thì có nghĩa là hành động liên kết, tác động liên kết.

Theo các nhà Phật học A-tỳ-đàm thì hành động của thân và ngữ hoàn toàn được chỉ đạo hay thúc đẩy bởi Tư hay Ý chí (cetanā).

Ngài Sthiramati trong Đại thừa Quảng ngũ uẩn luận, trang 0851b22, định nghĩa: “Hành uẩn là gì? Trừ thọ uẩn, tưởng uẩn ra, những tâm pháptâm bất tương ưng hành còn lại là hành uẩn.”

Hành uẩn giải thích theo kinh tạng Pāli:

saṅkhataṃ abhisaṅkharontī‟ti kho bhikkhavve saṅkhārā‟ ti vuccati.

“Chúng tác thành pháp hữu vi, do đó chúng được nói là các hành”.

Ngài Vasubandhu giảng luận rõ:

Ngoài (các hành thuộc) sắc, thọ, tưởng và thức, tất cả các hành còn lại gọi là hành uẩn… hành là tạo tác, tư là tự thể của tạo tác (nghiệp); nó (tư) có lực tạo tác mạnh mẽ cho nên gọi là tối thắng. Do vậy, đức Phật dạy: nếu có khả năng tạo tác các pháp hữu lậu, hữu vi, gọi đó là hành thủ uẩn ... Nếu không như vậy, các tâm sở khác và các bất tương ưng hành pháp không nhiếp thuộc vào uẩn… Cho nên, ngoài bốn uẩn, các pháp hữu vi còn lại đều nhiếp thuộc hành uẩn.

Vậy thì Hành không phải gì xa lạ, mà chính là Ý chí, hay động lực thúc đẩy để tạo ra nghiệp.

5. Thức uẩn (vijñāna-skandha)

Thức tiếng Sanskrit gọi là vijñāna: sự nhận thức, thông tin.

Định nghĩa thức uẩn theo luận Câu-xá 1: “vijñānaṃ prati vijñaptiḥ, Thức là sự nhận thức từng đối tượng cá biệt” (Thức vị các liễu biệt 識謂各了別).

Mỗi thức đối với từng đối tượng riêng của nó thủ đắc tổng tướng cho nên gọi là thức uẩn. Lại nữa, thức uẩn còn chia thành sáu loại thức thân: nhãn thức thân cho đến ý thức thân.

Định nghĩa theo Kinh tạng Pāli: vijānātī‟ ti kho bhikkhave viññānan‟ ti vuccati, nó liễu biệt, do đó nó được gọi là thức.

Vậy thức uẩn ở đây chỉ cho sáu thức, mà thể tính của nó là sự tri nhận hay thông tri cá biệt các đối tượng.


 

III.NGUYÊN LÝ DUYÊN KHỞI: THỨC - DANH SẮC

Khi giải thích mười hai chi duyên khởi, đức Phật nêu rõ định thức: “Thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Thức”, nghĩa là: “Do duyên là Thức mà có Danh sắc, do duyên là Danh sắc mà có Thức”.

Chữ Thức, tiếng Sanskrit là Vijñāpti, đi từ động từ căn vi-√jña có nghĩa là thông tin, cái thông tin, cũng hiểu là công cụ thông tin, hoặc cái dùng để nhận thức, chỉ cho thức thứ tám. Thức này luận sư kinh bộ gọi là “kết sinh thức (patisandhi-viññāna) nghĩa là thức kết nối giữa đời này và đời khác. Các nhà Phật học A-tì-đàm gọi là “Tối hậu tâm 最後心”[16]. Ngài Uất-lăng-Ca (Udlanka) gọi là “Sinh phần chuyển 生分轉”[17].

Yếu tố hình thành về tinh thần gọi là Danh (nama); yếu tố hình thành về vật chất gọi là Sắc (rūpa). Năm uẩn, chia theo danh sắc như sau: Danh (thọ, tưởng, hành, thức uẩn) – Sắc (sắc uẩn).

Vậy thì như đã nói, không thể tồn tại độc lập một thức A-lại-da, hay căn bản thức ngoài phần “Sắc”; ngược lại, nếu phần “Sắc uẩn hay Sắc” không có danh hay thức tồn tại trên nó để duy trì, thì sắc đó sẽ tan hoại và thối rã ngay lập tức.

Từ đó, chúng ta rút ra được kết luận, sau khi chết lập tức phải có năm uẩn mới, dù chấp nhậntrung hữu hay không có trung hữu, thì trung hữu đó cũng là một đời sống mới. Và tất cả đời sống đó, dù là từ lúc sinh ra cho đến lúc mạng chungtái sinh, thì đời sống đó chỉ là khối giả hợp giữa Danh và Sắc, trên nguyên lý duyên khởi và nguyên lý đó cũng chính là nguyên lý vô ngã, vì chúng là một khối kết hợp nhiều thành phần lại với nhau, bỏ riêng từng thứ ra thì không có gì gọi là tự ngã cả, không gì là ta hay sở hữu của ta.

Như vậy, chỉ khi nào vượt quahai loại hình sanh tử” thể nghiệm vô thượng Niết-bàn, khi đó mới có sự an lạc tuyệt đối, vượt qua mọi giả hợp của thế gian.

IV.KẾT LUẬN: CHIÊM NGHIỆMTHỰC HÀNH

Thực hành theo sự quán sát chân chánh, tức sẽ phát sinh được chánh tư duy về năm thủ uẩn, sự quán sát đó được dạy rõ trong kinh Tạp A-hàm, kinh số 1-8, thuộc thiên Tương ưng năm uẩn:

“Quán sát sắc là vô thường. Quán sát như vậy gọi là quán sát chân chánh. Khi đã quán sát chân chánh thì sẽ sinh ra nhàm tởm. Khi đã nhàm tởm thì dứt sạch hỷ tham. Sự dứt sạch hỷ tham được gọi là tâm giải thoát.

Cũng vậy, quán sát thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Quán sát như vậy gọi là quán sát chân chánh. Khi đã quán sát chân chánh thì sẽ sinh ra nhàm tởm. Khi đã nhàm tởm thì dứt sạch hỷ tham. Sự dứt sạch hỷ tham được gọi là tâm giải thoát”.

Kinh cũng nói: “Như vậy, nếu muốn tự chứng tâm giải thoát này thì có thể tự chứng, biết rằng: ‘Ta, sự sinh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong và tự biết không còn tái sinh đời sau nữa.’[18]đức Phật kết luận: “Cũng như quán sát vô thường, quán sát khổ, không, phi ngã cũng vậy.” Vậy thì, căn cứ trên kinh tạngluận tạng chúng ta có thể tổng quát nguyên lý năm thủ uẩn dựa trên vô thường-khổ-không-vô ngã như sau[19]:

a. Vô thường:- Bốn hành tướng trong khổ đế, vô thường có ba: 1. Vô tính vô thường, vì tính thể vĩnh viễn không tồn tại. 2. Khởi tận vô thường, vì có sinh và có diệt. 3. Cấu tịnh vô thường, vì chuyển biến trạng thái.

 b. Khổ.- Khổ có ba: 1. Sở thủ khổ, vì bị chấp thủ bởi hai chấp ngã và pháp. 2. Sự tướng khổ, do ba khổ tướng. 3. Hòa hiệp khổ, vì sự kết hợp với đặc tính khổ.

 c. Không.- Không có ba: 1. Vô tính không, vì tính thể không thực hữu. 2. Dị tính không, vì khác biệt với tự tính bị nhận thức lệch lạc. 3. Tự tính không, vì là tự tính được hiển thị bởi hai Không.

d. Vô ngã.- Vô ngã có ba: 1. Vô tướng vô ngã, vì ngã không có tướng. 2. Dị tướng vô ngã, vì khác biệt với tướng của ngã bị nhận thức lệch lạc. 3. Tự tướng vô ngã, tự tướng được hiển thị bằng vô ngã.

Có thể tạm vay mượn một đoạn mở đầu của Tâm kinh Bát-nhã để giải thích về sự chiêm nghiệm này: “Bồ-tát Ārya-Avalokitésvara trong khi thể hiện sự nghiệp Bát-nhã ba-la-mật sâu thẳm, vị ấy đã chiêm nghiệm: Đây là năm uẩn (skandha); và vị ấy thấy chúng là Không trong tự tính”.

Những ai thực hành được như vậy gọi là chiêm nghiệmquán sát chân chánh về năm thủ uẩn, sự quán sát đó nếu dùng Trái tim Bát-nhã song vận với Tình yêu phổ quát và khế hợp với “Tính Không”, thì đó chính là con đường Trung đạo: “độ nhất thiết khổ ách” vậy. 

Thiền viên Thiện Thệ,
Vô trụ xứ am, an cư Đinh Dậu
Phước Nguyên



[1] Quảng nuẩn luận, tr.0850c19.

[2] Câu-xá 1, T29n1558, tr. 0005a11tt.

[3] Tì-bà-sa 79, tr. 407c09. Cf. Tạp 3, Đại 2, tr. 19a; Pāli, S.iii, tr.25ff.

[4] Sphuṭārthā: pracchedārtho vā avadhyartha

[5] Kośa i.k.20ab, (T29n1558, tr. 0004c13): 聚生門種族, 是蘊處界義.

[6] Pāli, S.iii., tr.105.

[7] Tì-bà-sa 74, tr.383c16.

[8] a. Skandhārtha, Gadjin M. Nagao: Madhyāntavibhāga-bhāṣya, Tokyo 1964, p.45.

[9] Quyển Trung, Đại 31, tr. 0470b07.

[10] Câu-xá 1, T29n1558, tr. 0002a22.

*Skt. ye sāsravā upādānaskandhās te, T29n1558, ibid.: 有漏名取蘊; T29n1559, tr. 0162c20: 有流名取陰.

[11] Rūpayati, Dhātupātha xxvi, 125.

[12] Lup, Dhātupātha xxvi, 125.

[13] Pāli, Samyutta iii, tr. 86.

** Skt. rūpaṃ pañcendriyāṇy arthāḥ pañcāvijñaptir eva ca. T29n1558, tr. 0002b07: 色者唯五根, 五境及無表.

[14] T29n1558, tr. 0002b08-b11.

[15] Cảnh, Skt. artha, ý nghĩa, sự kiện, tài sản, mục đích, sự vật…

[16] Pháp uẩn 11, tr. 507. Cf. Tạp A-hàm 37, T02n0099, tr. 0267a02.

[17] Duyên sinh luận, T32n1652, tr. 0483b18.

[18] Tạp A-hàm, kinh số 1, bản Việt, Đức Thắng và TT. Tuệ Sỹ, tr. 23-24.

[19] Dẫn theo Thành duy thức luận, chương viii, TT.Tuệ Sỹ, tr. 638-639.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23109)
Đêm Rằm tháng Giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời. Trăng vẫn sáng đẹp như xưa, không có gì thay đổi...
(Xem: 8099)
Có ma hay không có ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Nếu phải trừ ma thì phải làm như như thế nào ?...
(Xem: 20519)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19531)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18403)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16257)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 15943)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 19039)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 14311)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 9620)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát nổi bật và được biết đến nhiều nhất trong tất cả các truyền thống Đại thừa, và đôi khi cả Tiểu thừa, như trường hợp ở xứ Tích lan và Thái lan cũng có thờ Ngài.
(Xem: 8716)
Philippe Cornu là một học giả uyên bác, thông thạo tiếng Tây Tạng, tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Hán… Ông viết bảo, dịch thuật rất nhiều kinh sách, và thường được mời thuyết giảng về Phật giáo trên đài truyền hình Pháp.
(Xem: 8209)
Lý tưởng Bồ tátảnh hưởng lớn trên đời sống, tư tưởng và hành động của người Phật tử trong suốt hơn hai ngàn năm nay...
(Xem: 8913)
Đề tài của buổi giảng hôm nay là nhằm giới thiệu bức tranh ‘Địa Ngục Biến Tướng Đồ’, còn có tên là ‘Thập Vương Đồ’, do lão sư Giang Dật Tử vẽ tại Đài Trung, hiện nay đang được triển lãm tại Kinh Đô, Nhật Bản.
(Xem: 10968)
Phật giáo luôn nhắc nhở con người nên tin ở mình, tinh tấn tu hành để tự giải thoát. Thật chưa có tôn giáo nào xác nhận tinh tấnđộng lực chính giúp con người vươn đến cõi toàn thiện...
(Xem: 9140)
Tác phẩm Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ của Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo là một trong những luận bản phổ biến nhất của Phật Giáo Tây Tạng...
(Xem: 8881)
Đức Phật đã dạy: “Chính sự khao khát là điều dẫn đến sự tái sinh. Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”.
(Xem: 7951)
Đây là thắc mắc mà thanh niên Subha Todeyyaputta từng nêu ra cho Đức Phật với hy vọng tìm kiếm câu trả lời từ Ngài.
(Xem: 9096)
Mọi phương pháp dạy cho con người tránh né khổ đau hay trốn chạy khổ đau để tìm kiếm hạnh phúc đều không phải là những phương pháp giáo dục hoàn chỉnh.
(Xem: 35631)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 8559)
Việt Nam Đạo Phật vốn là một tôn giáo gắn bó với dân tộc, có nhiều ảnh hưởng sâu đậm đến lịch sử phát triển của đất nước, nhất là về mặt văn hóa giáo dục.
(Xem: 15095)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 8703)
Thiền định là một phương pháp hành thiền có nguồn gốc từ đạo Phật được phát triển vững mạnh trong 3 thập niên qua ở Mỹ và nhiều nước khác.
(Xem: 15294)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 9180)
Đại Tạng Kinh là một kho báu chung của mọi người Phật tử, nhưng do nhu cầu học Phật ở mỗi quốc gia mà có sự hình thành các Đại Tạng Kinh bằng những ngôn ngữ khác nhau.
(Xem: 8843)
Tâm Phật rỗng rang, không chất chứa gì cả. Tâm chúng sinh là một kho chứa khổng lồ chất đầy gánh nặng vui buồn, sướng khổ, hận thù, oan khiên nghiệt ngã của quá khứ.
(Xem: 9359)
Gót tu sĩ bốn phương trời rảo bước, Cõi Ta-bà đâu chẳng phải nhà ta, Một mình đi bình bát với cà sa, Đói xin ăn, dưới gốc cây nằm ngủ…
(Xem: 8457)
Hơn ba mươi năm, tôi làm ở hội Từ Tế. Bởi vì, tôi thường làm việc cứu trợ trong và ngoài nước, cho nên tôi cảm nhận được thiên tai, nhân họa liên tục ập xuống trái đất.
(Xem: 10302)
Báo Chánh Pháp số 34, tháng 9 năm 2014, do ĐLHT. Thích Thắng Hoan (CA) và Brodard Chateau, Brodard Restaurant & Bamboo Bistro ủng hộ ấn phí.
(Xem: 7664)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler
(Xem: 9540)
Những chướng duyên có thể giúp hành giả trên đường giải thoát. Ý niệm này, thường tìm thấy trong kinh Phật, dạy cách đánh giá cao những chướng duyên mà chúng ta gặp phải, vì nhờ chúng nên trí tuệtừ bi mới được nảy sinh.
(Xem: 7518)
Chất lượng của tâm niệm thiện lành sẽ tăng rất nhiều khi xưng danh tha thiết; vì thế, từ trạng thái nhớ nghĩ chuyển qua thực hành xưng danh niệm Phật là điều tất yếu.
(Xem: 17231)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15021)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 9501)
Kính thưa thầy, con có một thắc mắc về chơn tâmbản tánh. Sao gọi là chơn tâm? Sao gọi là bản tánh? Vậy giữa chơn tâmbản tánh giống nhau hay khác nhau?
(Xem: 20904)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 9215)
Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo.
(Xem: 7180)
Nếu chúng ta phân tích kinh nghiệm của chúng ta một cách cẩn thận, thế thì tôi nghĩ thật rõ ràng rằng hầu hết những quấy nhiễu tinh thần đến từ những tình trạng tinh thần tiêu cựcchúng ta gọi là phiền não.
(Xem: 17713)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17636)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 25822)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 7834)
Những người được gọi là "siêu việt" là những kẻ chân thành muốn làm tan biến tất cả khổ não của người khác bằng việc thấu hiểu nổi khổ đau của chính họ.
(Xem: 9920)
Cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp.
(Xem: 7274)
Tất cả mọi giáo huấn của Đức Phật đều hướng đến việc đem tới sự thực chứng nguyện vọng tức thời của chúng ta...
(Xem: 9655)
Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Chết không phải là đoạn diệt hẳn, chết tại chỗ này nhưng lại sanh chỗ khác.
(Xem: 8145)
Thật là đại hạnh cho chúng tôi, nếu đức Thế Tôn cho phép nữ giới được sống đời xuất gia phạm hạnh thiêng liêng trong pháp và luật của đức Thế Tôn!
(Xem: 9108)
Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm...
(Xem: 7419)
Nếu bằng "cùng một nơi" chúng ta muốn nói thiên đàng[1] hay giải thoát khỏi vòng luân hồi, thế thì đấy là khó khăn...
(Xem: 8781)
Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày...
(Xem: 7935)
Đức Phật nói lý nhân duyên là nói đến sự thật của đời sống con người và muôn loài vật trên thế gian này.
(Xem: 8362)
Sự hình thành các hệ tư tưởng của Phật giáo Bộ phái không ngoài mục đích đáp ứng nhu cầu thực tế của Phật giáo đương thời, xã hội hoá Phật giáo.
(Xem: 7544)
Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người.
(Xem: 8730)
Chúng sinh trong cõi luân hồi vô thủy vô chung ấy đến rồi đi, đi rồi đến giống như hạt bụi nhỏ, phút chốc bỗng sinh trên trời, bỗng chốc sinh trên mặt đất...
(Xem: 8168)
“Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức” là một chân lý, một sự thật được nói nhiều trong tông Duy thức, và rộng ra, có trong tất cả kinh, luận.
(Xem: 8888)
Dựa theo thuyết Thiên mệnh của Khổng Tử thì thiên mệnh là mạng lịnh của Trời. Thiên mệnh là chủ thuyết rất quan trọng trong triết lý của đạo Nho.
(Xem: 7300)
"Sau khi tôi nhập diệt, giới luật sẽ thay tôi để làm thầy của quí vị, ở đâu có giới luật thì ở đó có tôi..."
(Xem: 14000)
Tập hợp các bài viết của nhiều tác giả cùng 1 chủ đề: Tứ Diệu Đế, Bốn Chân Lý cao cả
(Xem: 7109)
... nghành Tâm lý học sẽ không bao giờ có thể giúp con người thấy đúng và rõ sự thật của tâm lý mình và tâm lý người khác.
(Xem: 10363)
Duy thức học là một học thuyết tuy được xác lập vào khoảng thế kỷ thứ tư...
(Xem: 7699)
Giáo huấn của Đức Phật nhấn mạnh rằng không có một linh hồn độc lập hay một tự ngã độc lập.
(Xem: 8510)
Trong một quyển sách nhỏ «Phật Giáo Nhập Môn» tác giả Fabrice Midal đã dành riêng một chương để tóm lược thật ngắn gọn một số các khái niệm căn bản...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant