Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Long ThọTính Không

18 Tháng Bảy 201704:58(Xem: 6857)
Long Thọ Và Tính Không

LONG THỌ TÍNH KHÔNG

Nguyên Tâm
Nguyễn Nam

Long Thọ Và Tính Không

          Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người. Tám đại tông môn Đại thừa từ Thiền đến Mật tông đều tôn xưng ngài Long Thọ là tổ, vì giáo pháp của ngài luôn luôn là cơ sở lập cước của các tông môn. Nhưng Phật tử Á Đông ngoài lòng thành kính rất ít người biết về Bồ tát Long Thọ, cũng vì kinh luận về Long Thọ không được phổ biến rộng rãi đến quần chúng. Từ thế kỷ hai mươi, khác với sự sùng mộ của giới trí thức Tây phương về tư tưởng Tính Không của Long Thọ, người được Tây phương coi là triết gia vĩ đại nhất của Phật giáo, thì chúng ta, những người Phật tử Việt Nam, vẫn tiếp tục biết rất ít về Long Thọ. Nhân dịp Giáo sư Vũ Thế Ngọc nói chuyện về Bồ Tát Long ThọTrung Quán tại Orange County (tổ chức chiều chủ nhật 30 tháng 7 năm 2017 lúc 2.30 PM tại Thiền Đường Tánh Không Quận Cam Nam Cali), chúng tôi xin đăng tải bài viết này của Tiến sĩ Tâm Nguyên Nguyễn Nam sau đây.

 

         Là một người làm việc ở Hoa Kỳ từ hơn nửa thế kỷ, những quyển sách những dòng chữ Việt từ Việt Nam gửi sang luôn là suối nguồn nuôi giữ tình tự quê hương trong tôi. Nhưng hôm nay cũng nhờ dòng nước này, cụ thể là nhờ đọc thông viết thạo tiếng Việt, đã cho phép tôi đọc được bộ sách của tác giả Vũ Thế Ngọc để tìm ra nhiều điều mà tôi vẫn canh cánh trong lòng về tư tưởng Long Thọ. Nghỉ hưu từ hơn mười năm nay, tôi hầu như chỉ đọc sách về triết đông. Không như phần đông các trí thức người Mỹ tìm đọc sách Phật giáo như một thời thượng, hoặc như một cách giải quyết các nhiễu nhương tinh thần của thời đại. Tôi là một sinh viên đến từ một quốc gia Phật giáo, trước khi đi học khoa học ở Hoa Kỳ vào năm 1966 tôi cũng đã từng theo học đại học văn khoa. Nhiều năm quay cuồng với khoa học vật lý, tôi vẫn thỉnh thoảng đọc sách Phật. Nhưng chỉ từ khi nghỉ hưu tôi mới có toàn thời gian chìm ngập trong rừng sách Phật, phần lớn là sách tiếng Anh và tiếng Pháp. Và cũng như phần lớn trí thức ngoại quốc tôi lập tức bị thu hút (và choáng ngợp) với các sách viết về Tính Không của Long Thọ. Học hỏi được rất nhiều từ các học giả uyên bác này, nhưng có đôi điều tôi vẫn chưa tự giải quyết được bằng tủ sách Anh và Pháp ngữ đó, kể cả nhiều lần dự thính một cách chăm chỉ các khóa Phật họcliên quan đến giáo pháp Trung Quánchính đại học tôi vừa nghỉ hưu, một đại học có tiếng về phân khoa Phật học. Một cựu giáo sư đồng nghiệp giới thiệu tôi thử vào Long Thọ qua kinh luận Hán ngữ, vì theo ông là các học giả Tây phương hiện nghiên cứu về Long Thọ chỉ thường nghiên cứu từ các tài liệu Phạn văn và nhất là Tạng văn. Họ có thể không thông thạo Hoa ngữ và cũng vừa coi nhẹ mảng nghiên cứu về Long Thọ trong Hoa văn. Nhưng chính một bạn đồng nghiệp khác, gốc người Hoa, lại nói với tôi là tư tưởng căn bản của Phật giáo Trung Quốc dù cũng khởi từ Long Thọ nhưng quả thực trong Hoa ngữ còn thiếu các nghiên cứu cơ bản về Long Thọ, nên khuyên tôi tìm qua ngõ Nhật ngữ. Không thông thạo Hoa ngữ lẫn Nhật ngữ, nên kết quả tôi chỉ tìm đọc được các bài viết và bản dịch qua Anh ngữ. Không hoàn toàn trở lại thủa khởi đầu, vì tôi cũng học hỏi được rất nhiều qua nguồn sách Anh ngữ dịch từ các tài liệu viết bằng Nhật ngữ và Hoa văn.

            Hôm nay, nhờ chữ Việt tôi có duyên được đọc quyển Triết Học Long Thọ với nội dung là toàn văn bản Mūlamadhyamaka-kārikā (Căn Bản Trung Quán Luận) gồm cả văn bản Sanskrit lẫn bản dịch Anh ngữ, và đặc biệt gồm với bản dịch Hoa văn của Cưu Ma La Thập vị dịch giả tài hoa cùng với sự luận giải của một nhà sư Ấn Độ rất thông thái có tên là “Thanh Mục” (tôi đã cố tìm hiểu nhưng chưa biết vị này ra sao). Nhờ bản dịch của Cưu Ma La Thập cùng các giải thích của Thanh Mục (lẽ dĩ nhiên qua các luận giảng uyên bác của Vũ Thế Ngọc) mà hầu như các thao thức của tôi hơn mười năm nay vì chỉ đọc được các bản dịch giảng trong các sách của Kenneth Inaka, David Kalupahana hay P. Vaidya, đã được giải tỏa – Đặc biệt là phần “Triết Học Long Thọ” là cả một tiểu luận rất quan trọng, dù rất cô đọng, giới thiệu một cách sâu sắc về thế giới triết lý tư tưởng của Long Thọ. Vì vậy tôi vội viết vài dòng chữ này giới thiệu sách Triết Học Long Thọ đến các bạn. Nhưng tôi cũng xin thêm, nếu chỉ đọc có bản dịch của Cưu Ma La Thập thì các bạn cũng sẽ gặp các thách thức như tôi, vốn chỉ đọc sách Anh ngữ.

            Tủ sách Long ThọTánh Không không chỉ có Trung Luận (Mūlamadhyamaka), mà cả bốn luận quan trọng của Long ThọHồi Tránh Luận (Vigrahavyāvartanī), Thất Thập Không Tính Luận (Śūnyatāsaptati) Thập Nhị Môn Luận đều đã đươc ấn hành. Hai quyển Hồi Tránh LuậnThất Thập Không Tính Luận là hai luận có tính luận lý rất sâu. Vị đồng nghiệp người Hoa thẳng thắn nói với tôi rằng não trạng người Hoa rất hiện thực nên họ rất giỏi về khoa học lịch sử nhưng không có cái sâu sắc tôn giáo của văn hóa Ấn Độ, nên họ từ lâu đã không tiêu hóa được hai đại luận này (Thất Thập Không Tính Luận Hồi Tránh Luận) của Long Thọ. Ông cười và chúc mừng tôi có bản Việt dịch của hai luận này. Tôi không muốn phê bình về nụ cười có thể có nhiều ý nghĩa của ông, nhưng vừa hãnh diện vừa nghi ngại cầm hai bản dịch giảng của Vũ Thế Ngọc trên tay mà tôi mới tìm được sau nhiều tháng tìm tòi - Không hiểu vì sao các sách này rất khó tìm so với các sách khác của ông - Sau khi đọc kỹ, tôi mới yên trí thở ra, vì học giả Vũ Thế Ngọc đã cẩn thận chú giải cả nguyên tác Phạn Tạng, mà còn có cả bản dịch Anh ngữ và Hán ngữ (Hồi Tránh Luận, có bản dịch Hoa ngữ từ năm 541). Có thể người xấu bụng vội nghĩ rằng Vũ Thế Ngọc cố ý “lòe chữ” nhưng chính tôi, một người từ nhiều năm tìm học về Long Thọ thì hiểu rõ. Là người độc lập lại tiên phong dịch về các đại luận khó tiêu này ra Việt văn nên ông rất cẩn thận. Ông trình bầy như thế có lẽ để cố ý cho thấy “Long Thọ trong ngôn ngữ thế giới là như thế, và tôi, Vũ Thế Ngọc, thấy như thế này. Người đọc, người học, người phê bình hãy nhìn rõ cẩn thận cả hai ba chiều như thế, trước khi lên tiếng.” Có lẽ học giả trên thế giới không cần sự cẩn trọng này, nhưng dường như riêng ở Việt Nam chúng ta, vì nhiều lý do, vẫn thường có các phê phán vội vã, cố tình

            Riêng luận Thập Nhị Môn Luận, dù rất phổ biến ở Trung Hoa vì là luận cơ bản của Tam Luận Tông Trung Hoa, nhưng phần đông học giả tây phương không công nhận là của Long Thọ (dù cũng do Cưu Ma La Thập dịch) vì hai lý do chính đơn giản là không còn nguyên bản Sanskrit lẫn bản dịch Tạng ngữ. Trong dịch giải này, Vũ Thế Ngọc dịch giảng đã so sánh cẩn thận từng kệ, từng trang với ba luận cơ bản Trung Luận, Thất Thập Không Tính Luận Hồi Tránh Luận để đưa đến một kết luận vững trãi cho một nan đề tồn tại từ mưới ba thế kỷ trước về tác giả của luận này. Hơn nữa, một nửa sách Long Thọ Thập Nhị Môn Luận là phần dịch luận văn “Introduction to Nagarjuna”s Philosophy” cũng của Vũ Thế Ngọc viết trước đây. Luận văn này được cải biên thành “Nhập Môn Triết Học Tính Không”. Đúng như tên gọi, phần này giới thiệu 14 thuật ngữ Trung Quán, và các thuật ngữ này cũng là 14 khái niệm cơ bản dẫn vào triết học Tính Không. Và từ đây ông đã có ý định viết một tập sách nhỏ chung với Geshe J.J. Lai là “Bản Tra các Thuật Ngữ Trung Quán.” Tôi thiết nghĩ rằng giá được đọc phần này từ mười năm trước sẽ bớt tốn cho tôi biết bao thời gian quanh quẩn tìm đường đến môn triết học tính không này.

Tủ sách Long ThọTính Không không chỉ có giới thiệu luận của Long Thọ, mà như chương trình thì năm 2017 này sẽ ấn hành hai luận danh tiếng của Nguyệt Xứng viết về tư tưởng Long ThọNhập Trung Quán (Mādhyamakāvatāra) và Trung Quán Minh Cú Luận (Prasannapadā). Nguyệt Xứng (Chandrakīrti, thế kỷ thứ VII) là người được coi là giảng về Long Thọ thành công nhất trong lịch sử Phật giáo Đại thừa. Nhưng trong hơn mười ba thế kỷ trong kho tàng kinh luận khổng lồ Đại Tạng Hán Ngữ hầu như chưa có luận nào của Nguyệt Xứng được dịch giảng ra Hoa ngữ. Hai bản dịch luận này của Nguyệt Xứng cũng là bản dịch giảng đầu tiên ra Việt ngữ.

Sau Nguyệt Xứng tủ sách Long Thọ còn giới thiệu quyển Nāgārjuna and the Quantum World. Sách có tựa Anh ngữ nhưng chắc sẽ có bản tiếng Việt vì in trong tủ sách này. Đây là một quyển sách cá nhân tôi rất mong đợi. Là một người học và dạy Vật lý cả đời, tôi đã từng say mê quyển The Tao of Physics của Fritjof Capra từ 1975. Nhưng về già đọc lại tôi rất thất vọng. Sách không phân biệt được triết lý tư tưởng cơ bản giữa Bà La Môn với Lão Trang hay Phật giáo. Nhưng đó không phải lỗi của Capra, ông chỉ nói về cái “Đạo” tổng quát của phương đông. Ông không viết về Phật giáo mà cũng không phải là học giả về Phật học. Nhưng Nāgārjuna and the Quantum World thì ít nhất như trong đề tựa mà lại được in trong tùng thư Long Thọ, chắc chắn sẽ phải có nội dung Phật học. Tôi cũng chưa biết Vũ Thế Ngọc sẽ viết gì về “Quantum” nhưng thấy các trang ông viết về Quantum Physics trong Triết Học Long Thọ và các chú thích ông viết về uncertainty principle, principle of superposition, asymmetries in times v.v. trong Long Thọ Thập Nhị Môn Luận đều là những chủ đề lớn trong hội thảo lớn “Symposium on the Foundations of Modern Physics” mà tôi từng tham dự. Cho nên chủ đề sách này cá nhân tôi rất mong chờ.

 Viết đến đây cá nhân tôi không khỏi cám ơn Giáo sư Vũ Thế Ngọc và các thân hữu của ông trong tủ sách Tính Không rất thầm lặng (rất khó tìm mua sách của tủ sách này). Trong thực tế đời sống ngày nay, quả thực công việc khai triển và quảng bá tư tưởng triết lý tính không của Long Thọ vô cùng cần thiết, nhưng quí vị có thấy trước những khó khăn hầu như tuyệt vọng trong hiện thực ngày nay?  Những người còn nghĩ đến phẩm chất cao quí của cuộc sống thì vừa hiếm, vừa cũng dễ bị chao đảo trước các phong trào quần chúng dưới các mỹ từ là “khế lý khế cơ” hay “ứng dụng” hoặc “nhập thế” của nhiều tổ chức. Nhưng có lẽ cũng như quí vị, tôi nghĩ rằng vẫn còn có những người còn thao thức về một minh triết trí tuệ giải thoát, cho nên tôi mạo muội viết vài lời giới thiệu về Tủ Sách Long ThọTính Không cho những người còn có quan tâm này.

Nguyên Tâm Nguyễn Nam.

 

Bài đọc thêm:
Bài học tóm tắt trung quán luận
Trung Luận – (Madhyamaka Sastra) (Thích Thiện Siêu)
Trung Luận (Thích nữ Chân Hiền)
Trung Luận (Thích Viên Lý)
Trung Quán Luận (Đại Sư Ấn Thận - Thích Nguyên Chân)
Trung Quán Luận (Cao Dao)
Tìm Hiểu Trung Luận (Hồng Dương)
Luận Giải Trung Luận, Tánh Khởi Và Duyên Khởi (Hồng Dương)
Đại Cương Về Triết Học Trung Quán (Thích Viên Lý)
Trung Luận - Bồ Tát Long Thọ (Thích Tâm Thiện)
Lịch Sử Tư TưởngTriết Học Tánh Không (Thích Tâm Thiện)
Trung Quán Luận Kệ Tụng (Thích Tịnh Nghiêm)
Tìm Hiểu Trung Luận Nhận Thức Luận Và Không Tánh Trung Quán Luận
Đập Vỡ Vỏ Hồ Đào (Thích Nhất Hạnh)
Trung Luận Và Hồi Tranh Luận - Bồ Tát Long Thọ (Đỗ Đình Đồng)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26655)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13062)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27038)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32877)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31676)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32591)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13031)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12153)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17507)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18747)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12584)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11786)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13139)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12225)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12507)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11643)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 11997)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10617)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10934)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28341)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11178)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11372)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13605)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11043)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11442)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10903)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11192)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26363)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12394)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14890)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11068)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20346)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12364)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11476)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10781)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23928)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11865)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12307)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12843)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11059)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38746)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10551)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12208)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17717)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25075)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10560)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10773)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12059)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11333)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11596)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14748)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21446)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9912)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11271)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27387)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11188)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11849)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 11014)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14318)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11482)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant