Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Long ThọTính Không

18 Tháng Bảy 201704:58(Xem: 6862)
Long Thọ Và Tính Không

LONG THỌ TÍNH KHÔNG

Nguyên Tâm
Nguyễn Nam

Long Thọ Và Tính Không

          Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người. Tám đại tông môn Đại thừa từ Thiền đến Mật tông đều tôn xưng ngài Long Thọ là tổ, vì giáo pháp của ngài luôn luôn là cơ sở lập cước của các tông môn. Nhưng Phật tử Á Đông ngoài lòng thành kính rất ít người biết về Bồ tát Long Thọ, cũng vì kinh luận về Long Thọ không được phổ biến rộng rãi đến quần chúng. Từ thế kỷ hai mươi, khác với sự sùng mộ của giới trí thức Tây phương về tư tưởng Tính Không của Long Thọ, người được Tây phương coi là triết gia vĩ đại nhất của Phật giáo, thì chúng ta, những người Phật tử Việt Nam, vẫn tiếp tục biết rất ít về Long Thọ. Nhân dịp Giáo sư Vũ Thế Ngọc nói chuyện về Bồ Tát Long ThọTrung Quán tại Orange County (tổ chức chiều chủ nhật 30 tháng 7 năm 2017 lúc 2.30 PM tại Thiền Đường Tánh Không Quận Cam Nam Cali), chúng tôi xin đăng tải bài viết này của Tiến sĩ Tâm Nguyên Nguyễn Nam sau đây.

 

         Là một người làm việc ở Hoa Kỳ từ hơn nửa thế kỷ, những quyển sách những dòng chữ Việt từ Việt Nam gửi sang luôn là suối nguồn nuôi giữ tình tự quê hương trong tôi. Nhưng hôm nay cũng nhờ dòng nước này, cụ thể là nhờ đọc thông viết thạo tiếng Việt, đã cho phép tôi đọc được bộ sách của tác giả Vũ Thế Ngọc để tìm ra nhiều điều mà tôi vẫn canh cánh trong lòng về tư tưởng Long Thọ. Nghỉ hưu từ hơn mười năm nay, tôi hầu như chỉ đọc sách về triết đông. Không như phần đông các trí thức người Mỹ tìm đọc sách Phật giáo như một thời thượng, hoặc như một cách giải quyết các nhiễu nhương tinh thần của thời đại. Tôi là một sinh viên đến từ một quốc gia Phật giáo, trước khi đi học khoa học ở Hoa Kỳ vào năm 1966 tôi cũng đã từng theo học đại học văn khoa. Nhiều năm quay cuồng với khoa học vật lý, tôi vẫn thỉnh thoảng đọc sách Phật. Nhưng chỉ từ khi nghỉ hưu tôi mới có toàn thời gian chìm ngập trong rừng sách Phật, phần lớn là sách tiếng Anh và tiếng Pháp. Và cũng như phần lớn trí thức ngoại quốc tôi lập tức bị thu hút (và choáng ngợp) với các sách viết về Tính Không của Long Thọ. Học hỏi được rất nhiều từ các học giả uyên bác này, nhưng có đôi điều tôi vẫn chưa tự giải quyết được bằng tủ sách Anh và Pháp ngữ đó, kể cả nhiều lần dự thính một cách chăm chỉ các khóa Phật họcliên quan đến giáo pháp Trung Quánchính đại học tôi vừa nghỉ hưu, một đại học có tiếng về phân khoa Phật học. Một cựu giáo sư đồng nghiệp giới thiệu tôi thử vào Long Thọ qua kinh luận Hán ngữ, vì theo ông là các học giả Tây phương hiện nghiên cứu về Long Thọ chỉ thường nghiên cứu từ các tài liệu Phạn văn và nhất là Tạng văn. Họ có thể không thông thạo Hoa ngữ và cũng vừa coi nhẹ mảng nghiên cứu về Long Thọ trong Hoa văn. Nhưng chính một bạn đồng nghiệp khác, gốc người Hoa, lại nói với tôi là tư tưởng căn bản của Phật giáo Trung Quốc dù cũng khởi từ Long Thọ nhưng quả thực trong Hoa ngữ còn thiếu các nghiên cứu cơ bản về Long Thọ, nên khuyên tôi tìm qua ngõ Nhật ngữ. Không thông thạo Hoa ngữ lẫn Nhật ngữ, nên kết quả tôi chỉ tìm đọc được các bài viết và bản dịch qua Anh ngữ. Không hoàn toàn trở lại thủa khởi đầu, vì tôi cũng học hỏi được rất nhiều qua nguồn sách Anh ngữ dịch từ các tài liệu viết bằng Nhật ngữ và Hoa văn.

            Hôm nay, nhờ chữ Việt tôi có duyên được đọc quyển Triết Học Long Thọ với nội dung là toàn văn bản Mūlamadhyamaka-kārikā (Căn Bản Trung Quán Luận) gồm cả văn bản Sanskrit lẫn bản dịch Anh ngữ, và đặc biệt gồm với bản dịch Hoa văn của Cưu Ma La Thập vị dịch giả tài hoa cùng với sự luận giải của một nhà sư Ấn Độ rất thông thái có tên là “Thanh Mục” (tôi đã cố tìm hiểu nhưng chưa biết vị này ra sao). Nhờ bản dịch của Cưu Ma La Thập cùng các giải thích của Thanh Mục (lẽ dĩ nhiên qua các luận giảng uyên bác của Vũ Thế Ngọc) mà hầu như các thao thức của tôi hơn mười năm nay vì chỉ đọc được các bản dịch giảng trong các sách của Kenneth Inaka, David Kalupahana hay P. Vaidya, đã được giải tỏa – Đặc biệt là phần “Triết Học Long Thọ” là cả một tiểu luận rất quan trọng, dù rất cô đọng, giới thiệu một cách sâu sắc về thế giới triết lý tư tưởng của Long Thọ. Vì vậy tôi vội viết vài dòng chữ này giới thiệu sách Triết Học Long Thọ đến các bạn. Nhưng tôi cũng xin thêm, nếu chỉ đọc có bản dịch của Cưu Ma La Thập thì các bạn cũng sẽ gặp các thách thức như tôi, vốn chỉ đọc sách Anh ngữ.

            Tủ sách Long ThọTánh Không không chỉ có Trung Luận (Mūlamadhyamaka), mà cả bốn luận quan trọng của Long ThọHồi Tránh Luận (Vigrahavyāvartanī), Thất Thập Không Tính Luận (Śūnyatāsaptati) Thập Nhị Môn Luận đều đã đươc ấn hành. Hai quyển Hồi Tránh LuậnThất Thập Không Tính Luận là hai luận có tính luận lý rất sâu. Vị đồng nghiệp người Hoa thẳng thắn nói với tôi rằng não trạng người Hoa rất hiện thực nên họ rất giỏi về khoa học lịch sử nhưng không có cái sâu sắc tôn giáo của văn hóa Ấn Độ, nên họ từ lâu đã không tiêu hóa được hai đại luận này (Thất Thập Không Tính Luận Hồi Tránh Luận) của Long Thọ. Ông cười và chúc mừng tôi có bản Việt dịch của hai luận này. Tôi không muốn phê bình về nụ cười có thể có nhiều ý nghĩa của ông, nhưng vừa hãnh diện vừa nghi ngại cầm hai bản dịch giảng của Vũ Thế Ngọc trên tay mà tôi mới tìm được sau nhiều tháng tìm tòi - Không hiểu vì sao các sách này rất khó tìm so với các sách khác của ông - Sau khi đọc kỹ, tôi mới yên trí thở ra, vì học giả Vũ Thế Ngọc đã cẩn thận chú giải cả nguyên tác Phạn Tạng, mà còn có cả bản dịch Anh ngữ và Hán ngữ (Hồi Tránh Luận, có bản dịch Hoa ngữ từ năm 541). Có thể người xấu bụng vội nghĩ rằng Vũ Thế Ngọc cố ý “lòe chữ” nhưng chính tôi, một người từ nhiều năm tìm học về Long Thọ thì hiểu rõ. Là người độc lập lại tiên phong dịch về các đại luận khó tiêu này ra Việt văn nên ông rất cẩn thận. Ông trình bầy như thế có lẽ để cố ý cho thấy “Long Thọ trong ngôn ngữ thế giới là như thế, và tôi, Vũ Thế Ngọc, thấy như thế này. Người đọc, người học, người phê bình hãy nhìn rõ cẩn thận cả hai ba chiều như thế, trước khi lên tiếng.” Có lẽ học giả trên thế giới không cần sự cẩn trọng này, nhưng dường như riêng ở Việt Nam chúng ta, vì nhiều lý do, vẫn thường có các phê phán vội vã, cố tình

            Riêng luận Thập Nhị Môn Luận, dù rất phổ biến ở Trung Hoa vì là luận cơ bản của Tam Luận Tông Trung Hoa, nhưng phần đông học giả tây phương không công nhận là của Long Thọ (dù cũng do Cưu Ma La Thập dịch) vì hai lý do chính đơn giản là không còn nguyên bản Sanskrit lẫn bản dịch Tạng ngữ. Trong dịch giải này, Vũ Thế Ngọc dịch giảng đã so sánh cẩn thận từng kệ, từng trang với ba luận cơ bản Trung Luận, Thất Thập Không Tính Luận Hồi Tránh Luận để đưa đến một kết luận vững trãi cho một nan đề tồn tại từ mưới ba thế kỷ trước về tác giả của luận này. Hơn nữa, một nửa sách Long Thọ Thập Nhị Môn Luận là phần dịch luận văn “Introduction to Nagarjuna”s Philosophy” cũng của Vũ Thế Ngọc viết trước đây. Luận văn này được cải biên thành “Nhập Môn Triết Học Tính Không”. Đúng như tên gọi, phần này giới thiệu 14 thuật ngữ Trung Quán, và các thuật ngữ này cũng là 14 khái niệm cơ bản dẫn vào triết học Tính Không. Và từ đây ông đã có ý định viết một tập sách nhỏ chung với Geshe J.J. Lai là “Bản Tra các Thuật Ngữ Trung Quán.” Tôi thiết nghĩ rằng giá được đọc phần này từ mười năm trước sẽ bớt tốn cho tôi biết bao thời gian quanh quẩn tìm đường đến môn triết học tính không này.

Tủ sách Long ThọTính Không không chỉ có giới thiệu luận của Long Thọ, mà như chương trình thì năm 2017 này sẽ ấn hành hai luận danh tiếng của Nguyệt Xứng viết về tư tưởng Long ThọNhập Trung Quán (Mādhyamakāvatāra) và Trung Quán Minh Cú Luận (Prasannapadā). Nguyệt Xứng (Chandrakīrti, thế kỷ thứ VII) là người được coi là giảng về Long Thọ thành công nhất trong lịch sử Phật giáo Đại thừa. Nhưng trong hơn mười ba thế kỷ trong kho tàng kinh luận khổng lồ Đại Tạng Hán Ngữ hầu như chưa có luận nào của Nguyệt Xứng được dịch giảng ra Hoa ngữ. Hai bản dịch luận này của Nguyệt Xứng cũng là bản dịch giảng đầu tiên ra Việt ngữ.

Sau Nguyệt Xứng tủ sách Long Thọ còn giới thiệu quyển Nāgārjuna and the Quantum World. Sách có tựa Anh ngữ nhưng chắc sẽ có bản tiếng Việt vì in trong tủ sách này. Đây là một quyển sách cá nhân tôi rất mong đợi. Là một người học và dạy Vật lý cả đời, tôi đã từng say mê quyển The Tao of Physics của Fritjof Capra từ 1975. Nhưng về già đọc lại tôi rất thất vọng. Sách không phân biệt được triết lý tư tưởng cơ bản giữa Bà La Môn với Lão Trang hay Phật giáo. Nhưng đó không phải lỗi của Capra, ông chỉ nói về cái “Đạo” tổng quát của phương đông. Ông không viết về Phật giáo mà cũng không phải là học giả về Phật học. Nhưng Nāgārjuna and the Quantum World thì ít nhất như trong đề tựa mà lại được in trong tùng thư Long Thọ, chắc chắn sẽ phải có nội dung Phật học. Tôi cũng chưa biết Vũ Thế Ngọc sẽ viết gì về “Quantum” nhưng thấy các trang ông viết về Quantum Physics trong Triết Học Long Thọ và các chú thích ông viết về uncertainty principle, principle of superposition, asymmetries in times v.v. trong Long Thọ Thập Nhị Môn Luận đều là những chủ đề lớn trong hội thảo lớn “Symposium on the Foundations of Modern Physics” mà tôi từng tham dự. Cho nên chủ đề sách này cá nhân tôi rất mong chờ.

 Viết đến đây cá nhân tôi không khỏi cám ơn Giáo sư Vũ Thế Ngọc và các thân hữu của ông trong tủ sách Tính Không rất thầm lặng (rất khó tìm mua sách của tủ sách này). Trong thực tế đời sống ngày nay, quả thực công việc khai triển và quảng bá tư tưởng triết lý tính không của Long Thọ vô cùng cần thiết, nhưng quí vị có thấy trước những khó khăn hầu như tuyệt vọng trong hiện thực ngày nay?  Những người còn nghĩ đến phẩm chất cao quí của cuộc sống thì vừa hiếm, vừa cũng dễ bị chao đảo trước các phong trào quần chúng dưới các mỹ từ là “khế lý khế cơ” hay “ứng dụng” hoặc “nhập thế” của nhiều tổ chức. Nhưng có lẽ cũng như quí vị, tôi nghĩ rằng vẫn còn có những người còn thao thức về một minh triết trí tuệ giải thoát, cho nên tôi mạo muội viết vài lời giới thiệu về Tủ Sách Long ThọTính Không cho những người còn có quan tâm này.

Nguyên Tâm Nguyễn Nam.

 

Bài đọc thêm:
Bài học tóm tắt trung quán luận
Trung Luận – (Madhyamaka Sastra) (Thích Thiện Siêu)
Trung Luận (Thích nữ Chân Hiền)
Trung Luận (Thích Viên Lý)
Trung Quán Luận (Đại Sư Ấn Thận - Thích Nguyên Chân)
Trung Quán Luận (Cao Dao)
Tìm Hiểu Trung Luận (Hồng Dương)
Luận Giải Trung Luận, Tánh Khởi Và Duyên Khởi (Hồng Dương)
Đại Cương Về Triết Học Trung Quán (Thích Viên Lý)
Trung Luận - Bồ Tát Long Thọ (Thích Tâm Thiện)
Lịch Sử Tư TưởngTriết Học Tánh Không (Thích Tâm Thiện)
Trung Quán Luận Kệ Tụng (Thích Tịnh Nghiêm)
Tìm Hiểu Trung Luận Nhận Thức Luận Và Không Tánh Trung Quán Luận
Đập Vỡ Vỏ Hồ Đào (Thích Nhất Hạnh)
Trung Luận Và Hồi Tranh Luận - Bồ Tát Long Thọ (Đỗ Đình Đồng)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14644)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14629)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14064)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14948)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16567)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29904)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16224)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15541)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14891)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14879)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17887)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15577)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38677)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26729)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39665)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50769)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38752)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35053)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18310)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16473)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42408)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39248)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35622)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17464)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46537)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17156)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28502)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 19001)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17596)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17115)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17556)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16536)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16889)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30847)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16943)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18505)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18459)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17389)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18171)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17078)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23497)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 16992)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17466)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17674)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17066)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15740)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18040)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17439)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17216)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29534)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27730)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18182)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16118)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15373)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23040)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14838)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55124)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14207)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13256)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14189)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant