Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Các Pháp Vào Định

21 Tháng Tám 201707:34(Xem: 5318)
Các Pháp Vào Định

Các Pháp Vào Định

Nguyên Giác

Bài này sẽ trình bày một số pháp vào định, dựa trên nhiều truyền thống. Tuy được viết để trả lời nhiều thắc mắc, bài này vẫn là một khảo sát không thẩm quyền, vì bản thân người viết tu học chưa tới đâu. Trong các phần dựa vào kinh và luận, hy vọng các ghi chú cuối bài sẽ làm sáng tỏ hơn.

Trước tiên, nói về thái độ người tu học: cần có lòng tin kiên cố và tận lực tinh tấn, bất kể thịt da xương cốt khô héo.

Đức Phật nói trong Kinh MN 70 rằng đối với người tu có lòng tin kiên cố, dù bây giờ chưa tu học tới đâu, nhưng người có lòng tin tất nhiên sẽ tinh tấn, và trước khi lìa đời trong kiếp này sẽ hoặc là đắc quả Chánh trí (quả A La Hán), hoặc là quả Bất hoàn (quả Bất lai, hay A Na Hàm). Hãy tin rằng Đức Phật nói không thể sai được. Trích bản dịch của HT Thích Minh Châu là:

"Này các Tỷ-kheo, đối với đệ tửlòng tin giáo pháp bậc Đạo Sư và sống thể nhập giáo pháp ấy, thời tùy pháp này được khởi lên: “Dầu chỉ còn da, gân và xương, dầu thịt và máu trên thân bị khô héo, mong rằng sẽ có tinh tấn lực để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, nhờ trượng phu nhẫn nại, nhờ trượng phu tinh tấn, nhờ trượng phu cần dõng”. Này các Tỷ-kheo, đối với một đệ tửlòng tin giáo pháp bậc Đạo sư và sống thể nhập giáo pháp ấy, vị ấy sẽ chứng được một trong hai quả như sau: Chánh trí ngay trong hiện tại, và nếu có dư y, chứng quả Bất hoàn." (1)

Nhưng, phải tu học thế nào? Đức Phật dạy rằng phải tu trong từng giây phút trong ngày, tu trong từng khoảnh khắc trong và ngoài, hiểu là giữ gìn thân khẩu ý thanh tịnh từng khoảnh khắc.

Kinh Pháp Cú, kệ 315 viết: Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…

Nghĩa là, phải quan sát từng khoảnh khắc trong tâm.

.

Có một suy nghĩ rằng: tại sao nhiều vị sư hiện nay tập trung nhiều vào các pháp Thiền Chánh Niệm, và thường không nói nhiều về các pháp địnhthí dụ, vào sơ thiền, nhị thiền… Thực tế lịch sử, ban đầu phong trào dạy Vipassana khởi lên từ Miến Điện là từ Thiền sư Ledi Sayadaw (1846-1923), tìm ra pháp thiền thích nghi với mọi thành phần đại chúng để dùng như công cụ chống lại thực dân Anh, để toàn dân Miến Điện tu được trong mọi hoàn cảnh đời thường, và cũng để bảo vệ Phật Giáo trong khi nhiều giáo sĩ người Anh vào Miến Điện mở trường truyền giáo. Tuy ngài nhấn mạnh về tuệ, nhưng trong Thiền chánh niệm (Vipassana) từ ban đầu cũng tự động đã có yếu tố cận định, vì nếu không, sẽ không gọi được là Mindfulness. Trong các thế hệ sau của ngài có cư sĩ SN Goenka, người truyền dạy Vipassana ra toàn cầu và cả tại Việt Nam.

Tại sao quý ngài không dạy tập trung vào định? Bởi vì giới là cần hộ trì nhất. Và cũng vì hai thánh quả đầu tiên (Tu Đà Hoàn, Tu Đà Hàm) có thể đạt được mà không cần tập định.

Trong bài viết “Liberation - Relevance of Sutta-Vinaya(2) của Đại sư Dhammavuddho Thera có dẫn lời Đức Phật dạy trong các kinh MN43, SN 46.4.8, AN 10.75, AN 4.58, AN 5.41 cho thấy thánh quả Tu Đà Hoàn là thân cận thiện tri thức, lắng nghe Chánh pháp (lắng nghe, hiểu là nghe, đọc, nghiền ngẫm kinh điển), Chú tâm tương ưng (Paying proper attention or thorough consideration, chú ý tương ưng, suy xét cẩn trọng, như lý tác ý), siêng tu học.

Đại sư cũng dẫn ra các Kinh AN 3.85 và AN 9.12, Đức Phật nói rằng hai thánh quả đầu tiên cần có Giới toàn hảo (Perfect Sila).

Đặc biệt, thánh quả Tu Đà Hoàn không khó, theo phân tích của Đại sư, vì Kinh AN 3.9.85 nói rằng các bậc thánh vị vẫn có thể bị lỗi phạm giới nhỏ. Kinh SN 55.3.4 dẫn ra trường hợp ngài Sarakani, khi Đức Phật nói rằng Sarakani đã đắc thánh quả Tu Đà Hoàn đã làm đại chúng bất ngờ, vì Sarakani trước đó đã bị tẫn xuất  về đời thường, và đã phạm giới uống rượu.

Đại sư cũng dẫn ra Kinh MN 14, kể rằng ngài Mahanama, người đã đắc quả Tu Đà Hàm (còn gọi là Nhất Lai, một lần tái sinh nữa), trình với Đức Phật rằng ngài tu học nhiều năm, nhưng đôi khi trong tâm vẫn khởi lên niệm bất thiện (tham sân si). Đức Phật trả lời rằng bậc thánh dù đã có trí tuệ, đã biết tham sân si là sai, nhưng vẫn có thể bị lôi cuốn bởi niềm vui cảm giác, trừ phi đã đắc hai yếu tố trong Định là: piti (delight, vui sướng nhờ tu định) và sukha (happiness, hạnh phúc).

Đại sư trong bài cũng dẫn ra Kinh AN 5.3.26, nói về Năm Giải Thoát Xứ, cho biết người tu có thể đắc quả A La Hán qua một trong 5 giải thoát xứ: 1. Lắng nghe (hay học) Chánh pháp; 2. Giảng dạy Chánh pháp; 3. Tụng đọc Chánh pháp; 4. Tư duy ý nghĩa Chánh pháp; 5. Thiền tập.

Tới đây, cũng nên nhắc về hai Kinh AN 10.2, AN 11.2, Đức Phật dạy rằng chỉ cần giới đức thanh tịnh, các chi giải thoát khác (kể cả định, huệ) cũng sẽ tự động thành tựu, dẫn tới thánh vị A La Hán.

Như thế, chúng ta có thể hiểu vì sao, khi quý ngài Miến Điện khởi động phong trào toàn dân tu Thiền Vipassana, đã không tập trung dạy về định.

.

Một câu hỏi: Làm thế nào để biết là đã vào được sơ thiền? Đức Phật nói trong nhiều kinh rằng, vào sơ thiền (và các tầng thiền khác) sẽ thấy an lạc vô cùng tận. Trong sơ thiền, niềm vui hỷ lạc tràn ngập toàn thân y hệt như người tắm và xoa bột tắm trên toàn thân.

Đức Phật giải thích trong Kinh AN 5.28 rằng vào sơ thiền sẽ thấy:

"Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục... chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất với tầm, với tứ. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.

Ví như, này các Tỷ-kheo, như một người hầu tắm hay đệ tử hầu tắm, sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước. Cục bột tắm ấy được thấm nhuần nước ướt, trào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành giọt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho dung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần." (3)

Chúng ta dễ dàng hiểu được tại sao một số vị thầy ngoại đạo hướng dẫn đệ từ vào được sơ thiền, rồi nói  gì cũng được tung hô, vì niềm vui trong sơ thiền (và các tầng thiền khác) là tuyệt vời.

Chữ “tầm” trong giải thích về sơ thiền trong tiếng Anh là: thought (bản dịch của Bhikkhu Bodhi), directed thought (bản dịch Thanissaro Bhikkhu), initial thinking (bản dịch Leigh Brasington), applied thought (bản dịch Henepola Gunaratana). Nghĩa là: niệm hướng vào.

Chữ “tứ” trong giải thích về sơ thiền trong tiếng Anh là: examination (bản dịch của Bhikkhu Bodhi), evaluation (bản dịch Thanissaro Bhikkhu), sustained thinking (bản dịch Leigh Brasington), sustained thought (bản dịch Henepola Gunaratana). Nghĩa là: niệm trụ vào.

Như thế, chúng ta có thể tin rằng, có những trường hợp nhiều người đã vào được sơ thiền, mà không biết tới danh từ này. Đó là khi tâm lắng xuống, lặng lẽ, cảm nhận làn da trên toàn thân vui sướng vô cùng, hệt như bột tắm xoa toàn thân.

.

Có một câu hỏi: quý thầy dạy vào định như thế nào? Leigh Brasington là một thiền sư đã theo học nhiều năm ở Thái Lan, Miến Điện, Sri Lanka… giải thích rằng hiện có hai khuynh hướng chính trong Theravada -- mỗi khuynh hướng chính cũng dạy có phần khác biệt tùy các thầy, ở các quốc độ khác biệt:

-- dạy vào các tầng thiền theo Thanh Tịnh Đạo Luận, nổi bật là trường thiền Pa Auk Monastery (ở Miến Điện với các thiền thất kéo dài nhiều tháng, và khi một số môn đệ người Hoa Kỳ đưa pháp này về dạy ở Hoa Kỳ, rút ngắn còn khóa 10 ngày. Vào định hoặc bằng hơi thở, hoặc nhìn các đĩa màu kasina. Vị thầy nổi tiếng khác là Ajahn Brahmayamso, học với Thiền sư Ajahn Chah ở Thái Lan trước khi về Úc châu, chủ yếu dùng hơi thở để vào định, phương phápkết hợp với Kinh.

-- dạy vào các tầng thiền theo các Kinh Pali, nổi bật là nữ Thiền sư Ayya Khema, dạy vào định bằng nhiều cách, hơi thở, Tâm Từ, niệm quét (sweeping) trên thân. Tương tự là quý thầy Venerable Amathagavesi ở Sri Lanka. Bhante Gunaratana,  Thanissaro Bhikkhu…

Cách tu định phổ biến nhất là qua Thiền hơi thở và qua Thiền Tâm Từ.

Một số người nói rằng Tâm Từ trong nhà Phật cũng giống như Yêu Thương hay Bác Ái trong các đạo khác. Thực ra không phải. Thiền Tâm Từ trong nhà Phật có một số phương pháp tu khác nhau, cũng có hai khuynh hướng tu chính, một là theo Kinh và một theo Thanh Tịnh Đạo Luận.

Riêng phương pháp Tâm Từ do Đức Phật dạy trong Kinh Tương Ưng 46.64 độc đáo là kết hợp với Thiền Tứ Niệm Xứ.

Trích nơi đây từ bản tiếng Việt của HT Thích Minh Châu trong kinh “64. Từ” trong Tương Ưng Giác Chi:

Và này các Tỷ-kheo, từ tâm giải thoát tu tập như thế nào? Thú hướng như thế nào? Tối thắng như thế nào? Quả như thế nào? Cứu cánh như thế nào?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi câu hữu với từ … tu tập xả giác chi câu hữu với từ, liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Nếu vị ấy muốn: “Ta sẽ trú với tưởng ghê tởm đối với pháp không ghê tởm”, vị ấy trú ở đây với tưởng ghê tởm. Nếu vị ấy muốn: “Ta sẽ trú với tưởng không ghê tởm đối với pháp ghê tởm”, vị ấy trú ở đây với tưởng không ghê tởm. Nếu vị ấy muốn: “Ta sẽ trú với tưởng ghê tởm đối với pháp không ghê tởm và pháp ghê tởm”, vị ấy trú ở đây với tưởng ghê tởm. Nếu vị ấy muốn: “Ta sẽ trú với tưởng không ghê tởm đối với pháp ghê tởm và pháp không ghê tởm”, vị ấy trú ở đây với tưởng không ghê tởm. Nếu vị ấy muốn: “Từ bỏ cả hai không ghê tởm và ghê tởm, ta sẽ trú xả, chánh niệm tỉnh giác”, vị ấy trú ở đây với xả, chánh niệm tỉnh giác, hay đạt đến giải thoát được gọi là thanh tịnh, vị ấy an trú. Này các Tỷ-kheo, từ tâm giải thoátthanh tịnh tối thượng, Ta tuyên bố như vậy. Ở đây là trí tuệ đối với Tỷ-kheo không đạt tới giải thoát cao hơn.” (4)

Nghĩa là niệm giác chi kết hợp với tâm từ để ly tham, ly sân, ly si.

Chủ đề bản Kinh rất dài đó là: Làm cách nào Từ Bi dẫn tới giác ngộ… Kinh vừa nêu là Mettā Sahagata Sutta. Piya Tan giải thích theo Thanh Tịnh Đạo Luận rằng Đức Phật dạy trong kinh này là về đối trị nhóm 5 tưởng trong tâm.

Thứ nhất, trường hợp gặp một pháp mình ưa thích (thí dụ: gặp một phụ nữ xinh đẹp, nghe một đoạn nhạc ưa thích…), người tu phải khởi niệm, hướng bao trùm về pháp đó là bất tịnh, hay quán pháp đó là vô thường.

Thứ hai, trường hợp gặp một pháp mình không ưa (thí dụ: gặp một người hung dữ, hay đọc phải một bài thơ quá dở…), người tu hoặc là quán bao trùm đối tượng hung hăng đó bằng tâm từ, hay xem kẻ hung dữ đó chỉ là như tập họp các đại (thí dụ: đất, nước, gió, lửa).

Thứ ba, người tu quán bao trùm khắp các đối tượng cả xinh đẹp dễ thương và hung hăng dữ dằn đó bằng niệm về bất tịnh, hay xem chúng như vô thường; do vậy xem cả 2 như là “pháp ghê tởm” (dịch như HT Thích Minh Châu).

Thứ tư, người tu quán bao trùm khắp các đối tượng cả dễ thương và hung dữ đó bằng Tâm Từ Bi, hay xem chúng như các đại; do vậy xem cả 2 như là “pháp không ghê tởm” (dịch như HT Thích Minh Châu).

Thứ năm, tránh cả hai loại đối tượng dễ thương và hung dữ đó – khi xem sắc với mắt, nghe tiếng với tai, ngửi mùi với mũi, nếm vị với lưỡi, chạm xúc với thân, nhận ra pháp với thức, người tu không vui và cũng chẳng buồn, duy chỉ giữ tâm xả trong tỉnh thức tròn đầy.

.

Bây giờ, câu hỏi là: có cách nào tiện dụng để vào sơ thiền?

Thiền sư Leigh Brasington (người nối pháp của Ayya Khema) giải thích bằng một bài viết (5), giảng dạy trong một thiền thất 9 ngày trong năm 2002 do ông hướng dẫn. Ông nói rằng trong vòng 9 ngày, với pháp này sẽ có một số người vào được sơ thiền.

Bài hướng dẫn rất dài, nơi đây chúng ta tóm tắt như sau: Yêu cầu học nhân ngồi thẳng lưng, thoải mái, thư giãn toàn thân. Hít thở nhẹ nhàng, tự nhiên. Cảm nhận hơi thở nơi chóp mũi, chỉ chú tâm vào hơi thở nơi chóp mũi. Nếu tâm chệch ra, hãy kéo trở lại hơi thở nơi chóp mũi. Hơi thở mơ hồ dần, có thể cảm nhận là gần như biến mất, hay đã biến mất. Khi đó, chú tâm vào một nơi có cảm thọ an lạc. Thí dụ, mỉm cười (như tượng Đức Phật) và chú tâm vào thọ an lạc nơi mỉm cười. Nếu thấy chú tâm vào nụ cười mìm không được, hãy nghĩ tới nơi khác, thí dụ, giữa ngực hay trên đỉnh đầu, nghĩa là một nơi trên cơ thể để cảm nhận thọ an lạc. Tự nhiên như thế, không làm gì hơn, dần dà cảm thọ an lạc toàn thân sẽ tới, an lạc toàn thân vô cùng tận. Và đó là sơ thiền, khi đối chiếu với Kinh.

Như trên là một cách.

.

Trong Kinh AN 4.41, Đức Phật dạy về bốn cách khác nhau vào định, trích bản dịch của HT Thích Minh Châu:

Có định tu tập, này các Tỷ-kheo, do tu tập, do làm cho sung mãn, đưa đến hiện tại lạc trú. Có định tu tập, này các Tỷ-kheo, do tu tập, do làm cho sung mãn, đưa đến chứng được tri kiến. Có định tu tập, này các Tỷ-kheo, do tu tập, do làm cho sung mãn, đưa đến chánh niệm tỉnh giác. Có định tu tập, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến đoạn tận các lậu hoặc.” (6)

Trong bản phân tích của Piya Tan, nói về 4 cách này như sau.

Cách thứ nhất, an trú hạnh phúc ở đây và bây giờ (hiện pháp lạc trú), là tập cho bốn tầng thiền.

Cách thứ nhì, quán tưởng về ánh sáng, còn gọi là thiên nhãn, sẽ đạt tri kiến (biết và thấy).

Cách thứ ba, là chánh niệm tỉnh giác, tưởng về vô thường (quan sát các thọ sinh trụ dị diệt).

Cách thứ tư, quan sát sinh và diệt trong 5 uẩn (sắc thọ tưởng hành thức).

.

Tới đây, chúng ta sẽ nói về pháp Định Vô Tướng. Nói vô tướng, nhưng có nghĩa là thực tướng.  Như vậy, thực tướng là gì? Thực tướng các pháp đang diễn ra trước mắt, bên tai, và trong tâm mình là gì? Đức Phật trả lờivô thường, là vô ngã, là do nhân duyên kết hợp. Cụ thể: Làm sao để thấy vô thườngvô ngã trôi chảy trước mắt và bên tai?

Ngài Xá Lợi Phất (Sariputta) trong bài thơ “Guhatthaka-suttaniddeso: Upon the Tip of a Needle” (7) mô tả rằng tất cả các pháp chảy xiết qua các khoảnh khắc thời gian, y như điểm tiếp giáp của một hạt đậu rất nhỏ đặt lơ lửng trên đầu một mũi kim.

Nội dung bài thơ của ngài Xá Lợi Phất, nơi đây sẽ viết như văn xuôi cho dễ đọc, có thể dịch nghĩa như sau:

Đời sống, thọ mạng, niềm vui, nỗi đau đều buộc chung vào một khoảnh khắc của tâm, một khoảnh khắc nhanh chóng trôi đi. Ngay cả các vị phi nhơn sống lâu tới 84 ngàn tỷ năm cũng không sống được 2 khoảnh khắc nào trong tâm y hệt nhau. Cái ngưng lại nơi người đã chết hay cho người còn đứng nơi đây đều là cùng các uẩn, khi biến đi là vĩnh viễn không nối lại được. Các trạng thái đang biến mất bây giờ và các trạng thái sẽ biến mất trong các ngày tương lai đều có đặc tướng y hệt như các đặc tướng đã biến mất trước đây. Khi không tạo tác gì nữa, sẽ không có sinh ra; chỉ với hiện tại này, chúng ta đang sống. Khi đã nắm được nghĩa tối thượng, thế giới chết ngay khi tâm ngưng lại. Không cất giữ gì được những gì đã biến mất, không để gì được cho tương lai. Những người đã sinh ra trong đời này đang đứng y hệt như hạt đậu rất nhỏ trên đầu mũi kim. Sự biến mất của tất cả các trạng thái này đã không hề được hoan nghênh, mặc dù hiện tượng khoảnh khắc tan rã như thế đã có từ thời ban sơ. Từ nơi chưa được nhìn thấy, các trạng thái này hiện ra và biến đi, được nhìn thấy chỉ khi chúng đang trôi đi vào quá khứ. Y hệt tia chớp trên bầu trời: tất cả các pháp khởi lên và rồi biến hẳn đi.

 

Người viết tin rằng, bài thơ này khi được đọc và nghiền ngẫm, có sức mạnh dẫn vào định, y hệt như bài Bát Nhã Tâm Kinh, vì gần như tức khắc, trong tâm người đọc sẽ không còn trụ bất kỳ pháp nào nữa.

Thực tướng các pháp là trôi chảy như thế, là vô thườngvô ngã. Và như thế, Thực tướng chính là Vô tướng. Nhưng gọi là Thực tướng, hay gọi là Vô tướng cũng chỉ là khiên cưỡng, vì không có lời nào mô tả được. Chính trong Thực tướng này, gọi là Vô thường hay Thường cũng được, gọi là Vô ngã hay Ngã cũng được, vì gọi gì cũng là tạm gọi; nhưng gọi Vô thườngVô ngã sẽ cận nghĩa nhất. Hình ảnh các pháp chảy xiết như điểm tiếp giáp của hạt đậu nhỏ trên đầu mũi kim là bất khả ngôn thuyết, không lời nào nói được.

Hãy thử hình dung rằng chúng ta đang thấy, đang nghe, đang biết, đang cảm thọ toàn bộ thân tâmthế giới đang chảy xiết trong thời gian như hạt đậu nhỏ lơ lửng trên đầu mũi kim. Thử nhìn trước mắt các pháp như thế, sẽ thấy hiện lên bài Bát Nhã Tâm Kinh: không gọi được pháp nào là Có, không gọi được pháp nào là Không, và sẽ hiểu tường tận rất nhiều bản Kinh Phật, đặc biệt là hệ Bát Nhã. Sau khi đọc, quán sát, nghiền ngẫm, cảm thọ bài thơ trên của ngài Xá Lợi Phất, sẽ dễ dàng hiểu từng dòng Kinh Kim Cang.

Nhiều thế kỷ sau Đức Phật, ngài Long Thọ ra đời và mô tả rằng các pháp như thế đã hiện ra trước mắt chúng ta qua 2 sự thực: Chân đếTục đế.

Nghĩa là, tất cả những gì chúng ta nhìn về thế giới này đều qua bức màn không thực, dệt lên bằng ý thức. Chúng ta nói trước mắt là người, là cây, là núi, là sông… nhưng thực sự đó là khái niệm hóa gọi là người, là cây, là núi, là sông… Trong khi đó, các bậc thánh ngoài cặp mắt khái niệm hóa đời thường, còn nhìn qua cặp mắt soi chiếu 5 uần: tất cả chỉ là các uẩn (sắc thọ tưởng hành thức) đang trôi chảy xiết trên đầu mũi kim.

Trong hình ảnh chảy xiết đó, không thể có cái gì gọi là quá khứ, vị lai, hiện tại. Ba thời này chỉ là khái niệm hóa. Và hễ mở miệng về bất kỳ pháp nào, đều sẽ là các khái niệm hóa do chúng ta thêu dệt lên, và chúng ta không còn sống được trong cái hiện tiền nữa. Cũng là lý do, các Thiền sư Trung Hoa và Việt Nam ưa nói: Hễ mở miệng là trật rồi.

Trong Kinh SN 23.2 (8), Đức Phật dạy rằng phải đập cho tan vỡ, phải đập cho văng tứ tán, phải đập cho không còn gì hết ngũ uẩn sắc thọ tưởng hành thức (smashing, scattering, & demolishing form (etc.) and making it unfit for play) mới thấy được Niết Bàn. Đó là ngôn ngữ Bát Nhã Tâm Kinh vậy.

Đó cũng là ngôn ngữ Trung Quán của ngài Long Thọ. Đọc kỹ bài thơ của ngài Xá Lợi Phất đã dịch trên, chúng ta sẽ thấy ngài Long Thọ diễn lại chính xác cái nhìn chảy xiết qua đầu mũi kim đó qua bài kệ:

Bất sinh diệc bất diệt. Bất thường diệc bất đoạn. Bất nhất diệc bất dị. Bất lai diệc bất khứ.

Dịch: Không sinh cũng không diệt. Không thường cũng không đoạn. Không một cũng không khác. Không đến cũng không đi.

Đây là pháp Đốn Ngộ. Ngay khi thấy tức khắc thực tướng vô tướng, tất cả sắc thọ tưởng hành thức gần như tê liệt, và rồi cả năm uần đều sẽ từ từ mất sức mạnh. Và đó là pháp Ngộ Trước Tu Sau.

Thiền Tổ Sư nhấn mạnh về Ngộ, nhằm gỡ bỏ bức màn khái niệm hóa do tâm thức nhiều đời phủ lên thực tướng. Đó là những trường hợp trực nhận thực tướng vô tướng qua thấy nghe hay biết, nhưng khi kể lại bằng chữ viết qua nhiều đời sau, chúng ta đọc và ngỡ là bí hiểm. Như ngài Hương Nghiêm Trí Nhàn đại ngộ khi nghe tiếng viên sỏi văng vào cây trúc, chứ không phải là do suy luận gì. Hay như khi ngài Long Đàm thổi tắt nến, ngài Đức Sơn liền ngộ tức khắc, và hiểu hết ý chỉ của kinh điển. Đó là từ tai, từ mắt mà vào, và thấy ngay trong dòng chảy xiết vô thường của các uẩn, có một Niết Bàn Tự Tâm có thể cảm nhận qua tai, qua mắt – mà không phải qua mài giũa gì hết. Đó là như trong Kinh Bahiya Sutta, khi Đức Phật dạy ngài Bahiya rằng hãy để cái được thấy sẽ chỉ là cái được thấy, cái được nghe sẽ chỉ là cái được nghe…chúng ta thấy kết quả là: ngài Bahiya đốn nhập Niết Bàn.

Đó cũng là lý do Thiền Tông nói là pháp này nằm ngoài chữ nghĩa kinh điển, chỉ là muốn nói là phải Thấy, phải Nghe tức khắc cái Niết Bàn Tự Tâm, chứ không phải từ gạn lọc chữ nghĩa.

.

Pháp định của thực tướng vô tướng được Đức Phật nói nhiều lần trong nhiều kinh.

Kinh Pháp Cú, kệ 92 viết rằng: Bậc A La Hán một đối tượng là giải thoát ra khỏi cõi sinh tồn này, tức là, Niết Bàn vốn là Không và Vô Tướng. Nơi đến của họ, y hệt như chim bay trên bầu trời, không thể dò ra dấu vết (…They have as their object liberation from existence, that is, Nibbana which is Void and Signless. Their destination, like the course of birds in the air, cannot be traced).

Trong Trưởng Lão Tăng Kệ 1.92, có viết:

Với bậc đã có phiền não khô cạn, bậc không còn gắn bó vào thực phẩm, nơi an trúsự giải thoát của vô tướng và của rỗng rang không tánh: Lối đi của họ khó dò nổi, y hệt chim trên bầu trời.” (9)

Chữ “thực phẩm” trong đoạn trích dẫn trên  còn có ý nhắc lời Đức Phật dạy trong Kinh AN 10.27 và Kinh SN 12.64 rằng không cần tu gì hết, chỉ cần xa lìa thức ăn sinh tử luân hồi (10) là xong.

 

Kinh Phật nói rằng các pháp tự thân vốn xa lìa phiền não. Chỉ vì duyên vào nhau, dục tham khởi lên, mới bị trói buộc. Nghĩa là, nếu cảm nhận các pháp đang chảy xiết trong sắc thọ tưởng hành thức, tức khắc sẽ không có gì để duyên vào nhau mà trói buộc nữa. Như thế, nếu thấy các pháp chỉ là dòng chảy xiết trên đầu mũi kim,

Thiền Tông Việt Nam có gì liên hệ tới bài thơ của ngài Xá Lợi Phất? Thưa rằng chúng ta sẽ gặp lại gần như y hệt và sẽ hiểu tận tường bài kệ của ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ (khi thấy dòng chảy xiết vô thường trên đầu mũi kim):

Bản lai vô cấu tịnh; Cấu tịnh tổng hư danh. Pháp thânquái ngại; Hà trược phục hà thanh.

Dịch: Trước giờ vẫn không hề dơ với sạch; Dơ với sạch toàn là chữ rỗng thôi. Pháp thân không gì ngăn ngại; Chi mà đục với chi mà trong.

Trong dòng thơ trên của ngài Tuệ Trung, chúng ta gặp chữ “pháp thân” sau khi ngài nói rằng các pháp vốn không dơ, không sạch. Chảy xiết như thế, tất nhiên không dơ, không sạch, pháp thân hiển nhiêntrung đạoPháp Thân là Thân Của Pháp, là Thân Của Trí Tuệ, vốn xa lìa mọi dơ sạch.

Có phải Đức Phật nói bản nhiên các pháp vốn không hề dơ sạch?

Nơi phần trên, chúng ta có nói về pháp đối trị 5 tưởng, khi mắt nhìn thấy hình dáng của người xinh xắn, hay khi tai nghe đoạn nhạc du dương… nhưng tới Kinh SN 41.1, Đức Phật dạy rằng giữa tâm với cảnh nguyên khởi không gì trói buộc nhau, vì mắt không phải là trói buộc của sắc, và sắc không phải là trói buộc của mắt, tương tự với tai… Nghĩa là, tự thân, các pháp vốn xa lìa mọi trói buộc, mọi dơ sạch. Chỉ vì chúng ta khởi tâm linh tinh, mới có phiền não.

Trích bản dịch Kinh SN 41.1 của HT Thích Minh Châu:

“…con mắt không phải là trói buộc của các sắc; các sắc không phải là trói buộc của con mắt. Và ở đây, do duyên cả hai khởi lên dục tham gì, dục tham ấy ở đây chính là trói buộc. Cái tai không phải là trói buộc của các tiếng … Mũi không phải là trói buộc của các hương … Lưỡi không phải là trói buộc của các vị … Thân không phải là trói buộc của các xúc … Ý không phải là trói buộc của các pháp. Các pháp cũng không phải là trói buộc của ý.” [Nối kết bản Việt và Anh ở (11)]

Vì vậy, còn nói rằng trước hết là cần chứng ngộ được Pháp Thân, mới tức khắc biết cách để tâm vào nơi không dơ, không sạch, không vướng vào bất cứ những gì của quá-hiện-vị lai.

.

Như vậy, một cách phổ biến, Thiền Tông truyền dạy như thế nào?

Hiện nay, Thiền Tông phổ biến ở Hoa Kỳ là Tào Động (Soto Zen).

Thiền sư Thánh Nghiêm (1930-2009) giải thích về một pháp có tên là Mặc chiếu thiền của Tào Động Tông, qua lời cao đồ là Guo Gu nói trên tạp chí Lion's Roar ngày 12 tháng 8-2016, dịch như sau:

Cách toàn hảo để thực tập mặc chiếu là ngồi mà không dựa vào mắt, tai, mũi, lưỡi, thân hay ý. Bạn ngồi mà không trụ vào bất cứ nơi nào, không nghĩ tưởng bất cứ gì, cũng không rơi vào hôn trầm. Bạn không nhập định, cũng không để cho khởi niệm tán loạn. Trong khoảnh khắc này, tâm là như thị -- tỉnh giáclặng lẽ, tỏ tường và không ảo giác.” (12)

Trong đoạn dẫn trên có nói là “không nhập định” – chỉ đơn giảnThiền Tông là pháp đốn ngộ, thấy ngay tức khắc không hề xa lìa tự tánh định, nơi không hề có xuất địnhnhập định. Vì hễ nghĩ ngợi, là hạt đậu sẽ rơi khỏi đầu mũi kim.

Có một phương pháp khác, có thể sẽ thích nghi với nhiều người: dựa vào Kinh Lăng Nghiêm.

Trước tiên, nên tập khi ngồi. Cách ngồi khó nhất là kiết già, rồi tới bán già; cách dễ hơn là ngồi kiểu Miến Điện (xem hình ngồi qua https://images.google.com/  với nhóm chữ “Burmese posture”). Hay chỉ đơn giản ngồi trên ghế, áp sát hai bàn chân trên mặt đất. Khi quen thuộc rồi, nên tập trong mọi thời đi đứng nằm ngoài.

Hoặc mở mắt lim dim hướng tới đầu chóp mũi, hoặc nhắm mắt nhẹ nhàng. Hít thở nhẹ nhàng. Không nghĩ ngợi chút gì. Sau nhiều hơi thở nhẹ nhàng, hãy bắt đầu lắng nghe, chỉ đơn giản lắng nghe cái khoảnh khắc đang trôi chảy. Không phải nghe âm thanh bên trong, không phải nghe âm thanh bên ngoài. Chỉ đơn giản lắng nghe, là lắng nghe. Có tiếng cũng mặc, không tiếng cũng mặc. Chỉ lắng nghe, không phải nghe bằng hai tai, mà là như dường nghe bằng toàn thân. Chỉ nghe là nghe. Lặng lẽ, tỉnh giác, lắng nghe, không để chệch một khoảnh khắc nào.

Thiền tập như thế, trong vài phút đồng hồ, sẽ chứng nghiệm tất cả kinh điển. Trong cái lắng nghe, đó là Vô thường, vì âm thanh trôi đi, không gì níu được. Hễ khởi tâm nghĩ ngợi, lập tức mất đi cái lắng nghe đang trôi chảy. Trong cái lắng nghe, đó là Vô ngã, vì không hề có bất kỳ một pháp nào thoát khỏi dòng chảy xiết của âm thanh. Trong cái lắng nghe, không hề có cái gì gọi là “tôi” và “cái của tôi” vì dòng chảy xiết của âm thanh cuốn phăng hết cả 5 uẩn sắc thọ tưởng thành thức. Trong cái lắng nghe, nhân và quả hiện ra như là đồng thời, nhân duyên sinh và nhân duyên diệt như là đồng thời, nên còn gọi là không hề có sinh, và không hề có diệt. Trong cái lắng nghe, Tứ Thánh Đế tức khắc hiện ra, bất như ýan lạc đồng thời hiện ra, nơi đó Khổ và Diệt Khổ là một (và cũng là không), và do vậy Phiền Não tức thờiNiết Bàn, sóng là nước và nước là sóng (cũng nghiệm ra Trung Quán của ngài Long Thọ: Thị cố tri Niết Bàn, phi hữu diệc phi vô; như thế, biết rằng Niết Bàn không phải có và cũng không phải không). Trong cái lắng nghe, cũng sẽ nhận ra các diệu lý trong Kinh Duy Ma CậtKinh Giải Thâm Mật: thắng nghĩa bất nhị (không hai) nhưng cũng không gọi là một, và hoàn toàn xa lìa ngôn thuyết.

Khi ngồi lắng nghe như thế, có thể trong vài phút đồng hồ, sẽ thấy an lạc toàn thân, đầu  mình và tay chân như tắm trong hồ nước mát. Pháp này còn gọi là không có gì để tu, vì hễ nghĩ ngợi hay mở miệng là xa lìa cái lắng nghe rồi. Phật Tánh nơi đây sẽ hiển lộ trong cái toàn  thể, không gọi là trong hay ngoài. Trong pháp lắng nghe này, nếu chỉ lắng nghe bằng toàn thân xương cốt thịt da, đó là Tào Động Tông; nếu khởi lên chữ Ai, lập tức pháp lắng nghe trở thành phương tiện của Lâm Tế Tông. Nhưng chớ nên nghĩ là phải mài giũa gì, vì khi lắng nghe cái khoảnh khắc chảy xiết đó, bạn sẽ hiểu hết tất cả kinh điển trên toàn thân xương cốt da thịt của mình. Đó cũng là lời Đức Phật dạy ngài Bahiya, rằng trong cái được nghe sẽ chỉ là cái được nghe. Bất kỳ ai cũng có thể tập được pháp nghe của Kinh Lăng Nghiêm, và sẽ thấy trong vài phút đồng hồ, hiểu ngay tất cả mọi kinh điển, khi cảm nhận các pháp ấn cụ thể, rõ ràng, minh bạch… không gì mơ hồ. Và sẽ hạnh phúc vô cùng tận.

 

GHI CHÚ:

(1) Kinh MN 70: https://suttacentral.net/vn/mn70

(2) Liberation - Relevance of Sutta-Vinaya: http://www.budsas.org/ebud/ebdha163.htm

(3) Kinh AN 5.28, bản dịch của HT Minh Châu: https://suttacentral.net/vn/an5.28

(4) Kinh Tương Ưng https://suttacentral.net/vn/sn46.64

(5) Instruction for Entering Jhana: http://www.leighb.com/jhana3.htm

(6) Kinh AN 4.41: https://suttacentral.net/vn/an4.41

(7) Guhatthaka-suttaniddeso: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/nm/nm.2.04.olen.html

(8) Kinh SN 23.2: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn23/sn23.002.than.html

(9) TLTK 1.92: The one whose defilements are dried up, Who’s not attached to food, Whose resort is the liberation, That is signless and empty: Their track is hard to trace, Like that of birds in the sky. Xem: https://suttacentral.net/en/thag1.92

(10) Pháp Môn Định Vô Tướng: https://thuvienhoasen.org/a28189/phap-mon-dinh-vo-tuong

(11) Kinh SN 41.1, bản Việt dịch: https://suttacentral.net/vn/sn41.1

Bản Anh dịch của Ni trưởng Uppalavanna: …the eye is not the bond of forms and forms are not the bond of the eye, yet the interest and greed that arise on account of these two is the bond there. The ear is not the bond of sounds and sounds are not the bond of the ear, yet the interest and greed that arise on account of these two is the bond there... http://awake.kiev.ua/dhamma/tipitaka/2Sutta-Pitaka/3Samyutta-Nikaya/Samyutta4/40-Citta-Samyutta/01-Cittavaggo-e.html

(12) Bài Kinh Tuấn Mã: https://thuvienhoasen.org/a25964/bai-kinh-tuan-ma-va-thien-tong

 

Ý kiến bạn đọc
21 Tháng Tám 201722:36
Khách
Kính lạy đấng Điều Ngự Trượng Phu.
Từ bao lâu rồi, con mãi buông lung, chìm đắm trong dòng sông ái dục, mộng ảo. Nỗi khổ kg biết sao mà nói hết được chính con phải chịu và đã gây ra cho người và vật...
Ngày nay căn lành còn sót lại, con lại gặp chánh pháp của Như Lai, như cơn nắng hạn gặp được mưa rào, như trẻ con lâu ngày được sửa...Công đức của Ngài từ lâu hằng theo dõi giáo hóa con làm sao đáp được dù róc thịt chẻ xương A tăng kỳ kiếp.
Nam mô Chư Phật!
Hôm nay, một đệ tử lưu lạc đáng trách, lòng kính dâng một nén hương phụng hiến mười phương Chư Phật.
Đệ tử xin nguyện từ nay cho đến ngày thấu đạt chân lý, bất cứ sinh vào hoàn cảnh nào đều tỏ ngộ vô sinh, tu Bồ Tát hạnh.
Và xin cảm ơn bài viết rất hay của anh. Trân trọng!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14638)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14617)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14051)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14936)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16551)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29870)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16213)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15529)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14881)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14870)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17881)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15571)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38661)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26722)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39650)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50747)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38727)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35035)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18302)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16466)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42393)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39233)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35606)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17455)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46507)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17146)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28492)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 18989)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17588)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17106)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17540)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16530)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16878)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30829)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16933)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18501)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18451)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17375)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18165)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17071)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23488)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 16987)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17458)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17667)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17055)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15734)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18030)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17400)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17198)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29512)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27715)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18159)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16105)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15360)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23025)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14833)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55106)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14200)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13244)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14172)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant