Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

28. Địa Vị Của Nữ Giới Trong Đạo Phật

31 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 11169)
28. Địa Vị Của Nữ Giới Trong Đạo Phật

ÐỊA VỊ CỦA NỮ GIỚI TRONG

 ÐẠO PHẬT

Thái độ xã hội đối với phụ nữ được đánh dấu bởi những thành kiến cũng như sự thiên vị trong Tôn giáo. Vì vậy, sự phân biệt đối với nữ giới rõ ràng được đặc trưng chung của xã hội. Những thành kiến và vật cản mà nữ giới phải đối phó cũng tương tự như những trường hợp ở châu Phi, châu Á, châu Mỹ hoặc châu AÂu. Ðó là tình trạng lập dị mà nữ giới phải chịu thiệt thòi và có cơ sở trong sự thiên vị mang tính chất Tôn giáo. Chính bắt nguồn từ tôn giáo mà quan niệm về sự lập dị đối với phụ nữ được hình thành. Ở đây người phụ nữ được miêu tả như là một người khêu gợi rất hấp dẫn, quyến rũ và cũng luôn luôn bị cảnh báo trong hầu hết các Tôn giáo trên thế giới.

Một vài sự thiên vị về mặt xã hội được dựa trên một số niềm tin phổ biến. Theo một số huyền thoại Tôn giáo, người đàn ông được giới thiệu như là con của Thượng đế. Một điều rất xa lạ là người phụ nữ chưa bao giờ được đặt vào một địa vị tương tự như nam giới: là con của Thượng đế. Ða số những người tin vào thuyết linh hồn cho rằng linh hồn chỉ hiện hữu ở nam giới chứ không hiện hữunữ giới. Nữ giới thường được cho là những người có phẩm chất tồi nhất. Họ được xem như là nguồn gốc của tội lỗi trên thế gian này, thậm chí đến mức họ bị chỉ trích cho những sự bất hạnh mà nam giới phải gánh chịu trong kiếp này và kiếp lai sinh.

Xét về nguồn gốc lịch sử xã hộïi Ấn Ðộ thời tiền Phật giáo, có một ranh giới giữa nam giới và nữ giới rất rõ rệt. Ðặc biệt trong địa hạt xã hộigia đình nữ giới đượïc xem nhưhạ liệt, thấp hèn. Người ta xem phụ nữ như là một thứ tài sản hay một vật thể nào đó. Ðịa vị của cô ta chỉ giới hạn trong gia đình và cô ta phải chịu phục tùng sự ham muốn và nhu cầu cầu dục vọng của người chồng. Cô ta không phải chỉ hoàn tất công việc nội trợ mà còn xoay sở để nuôi sống cho cả gia đình. Chẳng hạn như một số Bà la môn kết hôn và sống với vợ, nhưng họ xem những món ăn do những bà vợ nấu là bất tịnh và không hợp khẩu vị của họ. Từ những ví dụ giống như trên, một huyền thoại được dựng thành. Nữ giới bị bêu xấu, sỉ nhục như là những kẻ đầy tội lỗi, và người ta còn cho rằng cách duy nhất để tránh xa mọi phiền lụy là buộc họ đầu tắt mặt tối như làm nhiệm vụ một người mẹ và nhiều bổn phận khác trong gia đình. Có một sự tin tưởng mãnh liệt rằng phải có một đứa con trai để nối dõi tông đườngthờ cúng ông bà tổ tiên. Tín ngưỡng truyền thống cho rằng chỉ có con trai mới có thể thực hiện những hình thức lễ nghi như thế. Và đó cũng là ý tưởng của đa số quan niệm rằng rất cần thiết cho việc mang lại sự an ổnan toàn cho ông bố sau khi qua đời.

Ngoài ra, người ta cũng tin rằng người mất có thể trở lại làm ma quấy phá gia đình nếu trong gia đình không có con trai nối dõi tông đường. Do đó, khả năng sinh con trai rất cần thiết và quan trọng đối với một phụ nữ sau khi có chồng. Trái lại, nếu một người đàn bà không sinh được con trai, thì người chồng có thể cưới vợ khác và ngay cả việc trục xuất bà ra khỏi nhà. Xem xét từ góc độ về tầm quan trọng trong việc sinh con trai quý hơn đối với một phụ nữgia đình, chúng ta biết rằng cộc sống của họ rất bấp bênh, bèo dạt mây trôi, phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng liệu bà ta có thể sinh được con trai hay không. Nhưng điều này không có nghĩa là cuộc đời của những thiếu phụ chưa lập gia đình thì chắc chắn hơn những người chị của ho.

Do đó, hôn nhân được xem là một thánh lễ (lễ này thường được áp dụng trong tất cả các hoạt động lễ nghi của Giáo hội Cơ đốc La Mã, Anh giáo và các phái Cơ đốc giáo khác). Vì vậy, một thiếu phụ trẻ chưa lập gia đình bị xã hội khinh miệt và luôn là đối tượng để người ta chỉ trích.

Xét về phương diện tâm linh, trong lĩnh vực thực hành lễ nghi tôn giáo, địa vị nữ giới đáng lẽ được chấp nhận thì cũng bị từ chối. Vì lý do đó người ta tin rằng người nữ không đủ khả năng đạt đến thiên đường nhờ vào những phước đức của bản thân. Hơn thế nữa, cô ta cũng không thể thờ cúng một mình được. Người ta cũng tin rằng cô ta chỉ có thể lên thiên đàng thông qua việc vâng lời chồng mà không có những đòi hỏi thắc mắc khác, cho dù người chồng vô tình làm những điều tội lỗi xấu xa. Và người ta cũng chấp nhận rằng thức ăn do người chồng ăn thừa lại là nguồn thức ăn cho cô ta.

Những minh họa trên đây cho thấy được mức độ của sự bất công bằng giữa nữ giới và nam giới.

Lời Tuyên Bố Của Ðức Phật

Bằng cách đi ngược lại những hình thức hẹp hòi cố chấp như thế can trở sự phát triển tâm linh, Phật giáo có thể được xem là một Tôn giáo không có sự phân biệt nữ giới. Rõ ràng là Ðức Phật là một vị giáo chủ, một bậc thầy tâm linh vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại trong việc tạo cơ hội bình đẳng và không ràng buộc cho phụ nữ trong lĩnh vực tu tập tâm linh. Mặc dầu, trong một vài trường hợp, Ngài chỉ ra khuynh hường tự nhiên và những yếu điểm của nữ giới một cách chung chung, Ngài cũng đặt cho họ đúng vị trítùy theo khả năng của từng người. Ngài thực sự là vị đạo sư mở đường cho nữ giới xuất giathành lập giáo hội Tỳ-kheo ni. Ðiều này ám chỉ rằng nữ giới cũng có thể tu tậpthanh tịnh hóa tâm, chứng đắc tâm hạnh phúc, Niết-bàn, (Nibbana) như nam giới. Sự kiện này được minh chứng đầy đủ, rõ ràng bằng những bằng chứng về sự hiện diện của Giáo hội Ni giới trong thời kỳ Ðức Phật. Những lời dạy của Ðức Phật đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc xóa bỏ vô số niềm mê tín dị đoan và những hình thức lễ nghi vô nghĩa không mang lại sự an lạc, giải thoát cho con người. Bao giờ việc giết xúc vật cúng tế thần linh để được ban phước, theo quan điểm của đại đa số. Khi Ðức Phật biểu lộ về chân bản chất của sự sinh tử, và giải thích những hiện tượng tự nhiên ngự trị vũ trụ của chúng ta, thì lúc đó dân chúng mới bắt đầu thấu hiểu. Kết quả của việc này là Ðức Phật đã xóa bỏ sự phân biệt giai cấp những sự bất công trong xã hội, và những cố chấp thành kiến đang thịnh hành trước đó. Vì vậy khiến cho nữ giới có thể tự do theo đuổi cuộc sống của mình. Mặc dù Ðức Phật đã đề cao địa vị của nữ giới trong xã hội. Ngài cũng chỉ ra rằng sự khác biệt về mặt xã hộitâm lý tồn tại giữa nam giới và nữ giớ. Ðiều này được chỉ rõ trong tư cách rất thiết thực, trong sự quan sát của ngài, cho con người từ mọi triều đại, được tìm thấy trong việc quan sát rõ rằng, rất thực tế, rất đời thường. Những ví dụ này được ghi nhận rất rõ trong kinh Anguttara và Samyutta. Bài kinh này cũng đề cập rằng trách nhiệm của nam giới được yêu cầu không ngừng trong lĩnh vực học thức. Anh ta nên cải thiện và cân bằng những kỹ năng thủ công và chuyên môn và luôn tận tụy với công việc. Anh ta cũng phải có thể tìm kiếm những phương kế sanh nhai cho bản thângia đình. Mặt khác, người ta cũng phát biểu rằng trông nom nhà cửa quán xuyến công việc nội trợ và chăm sóc chồng con là bổn phận của nữ giới

Tương Ưngbộ kinh bao gồm nhiều lời kinh có giá trị mà Ðức Phật đã dạy cho những thiếu phụ trước khi lập gia đình. Thấy trước những khó khăn sẽ phát sinh sau khi lập gia đình. Ðức Phật khuyên các thiếu nữ nên kính trọng cha mẹ chồng hầu hạ thương yêu bố mẹ chồng như như là bố mẹ ruột của mình. Họ cũng được yêu cầu kính trọngtôn kính bà con họ hàng bên chồng, và bạn bè của chồng để tạo ra một không khí dễ chịuvui vẻ nơi nhà chồng. Liên hệ đến vợ chồng: Ðức Phật khuyên: “Vợ chồng phải thương yêu nhau, người vợ vừa là vợ vừa là người yêu, vừa là người bạn và có khi là chị hay em (hoặïc mẹ). Người vợ cũng được khuyên để học tập và hiểu bản chất của người chồng, biết chắc được những hành động của chồng, tính cách và khí chất của chồng, và nhằm tạo ra sự hợp tác giữa vợ và chông trong mọi thời gian, mọi hoàn cảnh. Người vợ cũng nên tử tế, nhã nhặn và chu đáo với họ hàng, láng giềng cũng như người nô tỳ. Và người vợ phải quán xuyến của cải do chồng kiếm được và chi tiêu vừa phải, hợp lý không phí của cải trong những trường hợp vô ích

Thật lạ lùng thay, cách đây hơn hai ngàn năm mà Thế tôn quan niệm về vợ chồng của tuổi trẻ rất là đặc biệt. Những lời khuyên của Ðức Phật như thế thực sự là nhưng lời khuyên vượt thời gian. Ðức Phật đề cao sự ràng sự an lạc và hài hòa trong một gia đình thuộc phạm vi của người vợ. Vì vậy, lời khuyên của ngài đối với nữ giới trong vai trò cuộc sống gia đình rất thiết thựcthực dụng. Ngài đưa ra một loạt những phẩm chất mà người vợ phải hoặc không nên thi đua. Vào những dịp khác, Ðức Phật khuyên một người vợ rằng: 

- Không nên nảy sinh những ác ý chống đối lại người chồng; 
- Không nên thô lỗ, hà khắc, độc đoán, hống hách;
- Không nên tiêu tiền như rác, nhưng phải biết tiết kiệm tùy theo điều kiện cho phép của cô ta; 
- Phải sốt sắng bảo vệ và dành giụm tài sản kiếm được của người chồng; 
- Phải công, dung, ngôn, hạnh;
-Phải trung thành và chung thủy với nhau;
- Nên nhã nhặn trong lời nói và tử tế lịch sự trong hành động;
-Nên tốt bụng, cần cù, siêng năng;
- Nên quan tâm chu đáo và thương yêu chồng và thái độ của người vợ nên đối xử ngang bằng với thái độ của người mẹ thương yêu con cái;
- Nên khiêm tốn và kính trọng;
- Nên ôn hòa điềm tĩnhhiểu biết
- Vừa là người vợ, người bạn, và người cố vấn cho chồng khi cần thiết.

Cùng với thời Ðức Phật cũng có những vị giáo chủ của các tôn giáo khác nói về trách nhiệm, bổn phận của người vợ đối với người chồng. Họ nhấn mạnh rằng đó là bổn phận riêng của người vợ là phải sinh con và đáp lại người chồng một cách chân thành và tạo ra niềm hạnh phúc cho gia đình. Quan điểm này cũng tương tự với quan điểm của Khổng Tử (Tam tòng tứ đức). Tuy nhiên, bổn phận của người vợ đối với người chồng đề cao trong những quy tắc đạo đức của đạo Khổng, nhưng nó không đề cao trách nhiệm của người chồng với người vợ. Những lời dạy của Ðức Phật không thiên vị, không hướng về phía người chồng. Trong kinh Thiện Sinh (Trung Bộ Kinh số 31) Ðức Phật giải thiùch rõ ràng mối tương quan giữa bổn phận và trách nhiệm của người chồng đối với người vợ và ngược lại.

Về phần người chồng anh ta phải trung thành nhã nhặn và và không khinh miệt. Chính trách nhiệm bổn phận của người chồng thường xuyên săn sóc các nhu cầu, hay sắm quà tặng cho vợ, và yêu thương vợ. Vì vậy chúng ta chứng kiến được thái độ không thiên vị của Ðức Phật đối với cả hai giới. Ðức Phật cũng chỉ ra nhiều cản trở bất lợi và trở ngại mà người phụ nữ phải chịu đựng. Chẳng hạn, những sự thử thách, khổ cực và phiền phức mà một người thiếu phụ phải chịu đau khổ trước khi dời gia đình mình về nhà chồng và sự đau khổ trong việc thích nghi bản thân trong một môi trường sống mới đầy rẫy vấn đề và khó nhọc. Thêm vào những nỗi đau khổ trên là những nỗi đau khổ về mặt sinh lý mà họ phải chiụ trong suốt thời kỳ kinh nguyệt, mang thai và sinh con. Tất cả những nỗi đau khổ trên chỉ là những hiện tượng tự nhiên chỉ biểu hiện những bất lợihoàn cảnh khác nhau đang thịnh hành giữa nam giới và nữ giới.

Những lời dạy của Ðức Phật liên quan đến chân bản chất của vấn đề sinh tử vấn đề nghiệp báoluân hồi, chuyển hóa thái độ của xã hội đối với nữ giới trong một thời kỳ trước đó. Ðây chính là lý do đặc biệt quá chú trọng đến sinh con trai hơn con gái. Phật giáo không bao giờ đồng ý với quan điểm Bà la môn giáo rằng nguời con rai rất cần thiết cho sự đầu thai của người cha lên thiên đàng. Ðức Phật dạy rằng theo quy luật của nhân quả, con người phải chịu trách nhiệm cho những hành động của mình và phải lãnh lấy hậu quả của nó. Những hành động thiện của người bố hoặc của ông bà không phụ thuộc vào hành động của con hoặc cháu. Mỗi cá nhân phải chiụ trách nhiệm cho những hành động của mình. Do đó, không có lý do để những người nữ có gia đình phải lo lắng băn khoăn chỉ vì không thể sinh cho gia đình chồng một hoàng nam, chỉ nhằm mục đích phục vụ nối dõi tông đường. Ðiều này cũng có nghĩa là con gái có thể hoàn thành tốt trách nhiêm như con trai.

Có thể trong thời kỳ Ðức Phật, người con gái có thể không lập gia đình nhưng không bị lăng mạ, sỉ nhục, cô ta có thể bằng lòng ống với gia đình mình và chăm sóc bố mẹ, em trai và em gái chu đáo. Thậm chí cô ta là chủ sở hữu của một tài sản lớn lao. 

Ðạo Phật không đặt nặng vấn đề quan trong sinh con trai hay con gái. Trong Tương Ưng Bộ kinh-Kinh Kosala–phẩm thứ 2-VI Người con gái- khi vua Passnadi nước Kosala đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn. Rồi một người đi đến vua Passenadi nước Kosala và báo tin kề bên tai vua Pasenadi: “Thưa Ðại vương, hoàng hậu Mallika đã hạ sinh được một người con gái.” Khi được nghe như vậy vua Pasenadi không được hoan hỉ bởi vì ngài đang mong có một hoàng nam. Sau khi biết điều này Thế Tôn nói lên bài kệ như sau:

Này nhân chủ ở đời
Có một số thiếu nữ
Có thể tốt đẹp hơn
So sánh với con trai
trí tuệ gới đức
Khiến nhạc mẫu thán phục 
Rồi sinh được con trai
anh hùng quốc chủ
Người con trai như vậy
Của người vợ hiền đức
Thật xứng là đạo sư
Giáo quốc cho toàn quốc *
 (Bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu – VNCPH VN ấn hành)

Ðạo Phật đã mở ra cánh cửa cho phép nữ giới tham gia đầy đủ tất cả các lĩnh vực của đạo giáo bằng cách làm cho họ có đủ tư cách, khả năng được phép gia nhập vào giáo hội Tỳ-kheo ni (Order of Nuns). Ðiều này đã mở ra một con đường mới, nền văn hóa xã hội và những cơ hội cho một cuộc sống phổ biến cho nữ giới. Nó giúp cho nữ giới nhận thức được tầm quan trong của họ trong xã hội và làm như vậy cũng nhằm nâng cao địa vị của nữ giới. Mặc dù có một vài lời phê phán châm chọc được viết trong tâm trang về những sự cám dỗthái độ của nữ giới, Ðức Phật cũng đề cập trong Kinh Tương Ưng rất nhiều đặc trưng bù đắp lại của họ. Người ta còn cho rằng trong một số trường hợp nào đó nữ giới được xem là thông thái hơn và sâu sắc hơn, thận trọng hơn nam giới. Và nữ giới cũng được xem có khả năng chứng đắc giác ngộ hay thánh quả sau khi tu tập Bát Chánh đạo. Mặc dầu có một số dường như có vẻ hơi khó chịu, thông qua sự quan sát cẩn thận chúng ta thấy rằng những gì Ðức Phật nói về nữ giới vẫn còn có giá trị cho đến ngày nay. Do vậy, khi tiết lộ bản chất của nữ giới như Ðức Phật đã làm khi vua Pasenadi nước Kosala thấy rằng nhà vua có một người con gái thay vì một hoàng nam - Ðức Phật đã chỉ ra không chỉ những yếu điểm của nữ giới mà còn những khả năng của họ ..... Ðức Phật đã chỉ ra rõ ràng rằng nữ giới cũng có khả năng hiểu biết giác ngộ lời dạy của ngài và cũng thực hành tu tập. Nhìn từ lời dạy đó đến mức độ chứng đắc thánh quả, đoạn trừ vô minh. Ðiều này được chỉ ra rất rõ ràng trong lời khuyên của Ðức Phật cho nhiều phụ nữ trong dịp khác nhau và nhiều trường hợp khác. Ðức Phật thuyết bài pháp vô thường cho nữ tôn giả Khema. Nữ Tôn giả Khema có nhan sắc tuyệt trần, là hoàng hậu của vua Tần- bà- sa-la (Bimbasara). Khi Thế Tôn ở tại Trúc Lâm, nàng cùng các người hầu cận đến hầu Thế Tôn, Thế Tôn hóa hiện một tiên nữ đẹp hơn nàng, đứng hầu quạt Thế Tôn. Trước mắt nàng, tiên nữ bỗng trở nên già sọm rồi ngã quỵ xuống đất, khiến nàng thức tỉnh, tiêu tan tất cả kiêu mạn về nhan sắc của mình. Bấy giờ Thế Tôn dạy: 

Người đắm say các dục, 
Như nhện sa lưới dệt,
Bỏ mọi khổ không màng,
Tự lao mình xuống dòng
Người trí cắt trừ nó”.
(Pháp Cú- 347)

Với sự nhận thức được sự vô thường, sau đó nàng chứng đắc A-la-hán ngay tại chỗ và xin Ðức Thế Tôn gia nhập vào giáo hội Tỳ-kheo ni.

Nữ Tôn giả Dammadinna là vợ của một người có địa vị trong xã hội, ông Visakha. Khi Visakha nghe Thế Tôn dạy, liền đắc A-la-hán và xuất gia. Nàng cũng xin xuất gianhập thất tu, không bao lâu nàng liền chứng đắc A-la-hán quả vị cao hơn cả Visakha (người chồng cũ). Nữ Tôn giả là vị thuyết pháp đệ nhất.

Trường hợp nữa là Nữ Tôn giả Patacara vốn con nhà giàu, về sau lập gia đình với chàng trai giúp việc nhà và trốn nhà ra đi. Ðến lúc sinh được hai con trong điều kiện rất khổ sở thì chồng bị rắn cắn chết, một đứa con bị diều tha, một đứa bị nước cuốn trôi, cha mẹ và các em bị thiệt mạng trong một đêm bão tố. Quá đau khổ nên nàng bị điên. Sau đó nàng gặp Thế Tônhồi tỉnh, Thế Tôn thuyết pháp tế độ nàng. Về sau nàng đắc A-la-hán quả và thuyết pháp độ năm trăm vị ni khác cũng đắc quả.

Sự thành lập Giáo hội Ni giới- (Order of Nuns) vào năm thứ 5 từ khi thành Ðạo cho đến khi thuyết pháp độ sanh của Thế Tôn đã mở ra con đường tự do hoàn toàn tín ngưỡng cho nữ giới. Nó được thành công theo ý nghĩa mà có nhiều vị ni xuất chúng rất thông thái trong lãnh vực học tập cũng như tu tập giáo pháp. Dưới đôi mắt của thế gian Phật giáo phát triển rất cao. Trưởng Lão Ni Kệ (The Psalms of the Sisters) bao gồm 77 bài kệ của các vị ni là một trong những niềm tự hào của văn học Phật giáo. Ðức Phật không giới hạn việc học và hành pháp của ni giới. Giáo hội ni giới đã tạo ra một số vị thuyết pháp rất xuất sắc và những luận sư xuất sắc như: Maha Pajapati (nhũ mẫu của Thái tử Tất Ðạt Ða), Khema (trí tuệ đệ nhất) Dhammadim (đứng đầu chư vị pháp sư ni), Patacara (Luật tạng đệ nhất) Nanda (Thiền định đệ nhất).

Theo Phật giaó, một người con trai không cần thiết cho sự tự do giải thoát lên thiên đàng của người cha, mà người con gái cũng có thể làm tốt công việc như con trai, và được quyền tự do sống một cuộc sống độc lâïp. Bằng cách đảm bảo cho nữ giới một vai trò tích cực trong cuộc sống tu hành. Ðức Phật cũng giúp nâng cao địa vị của họ trong cuộc sống trần tục

Tuy nhiên, việc chấp nhận nữ giới gia nhập Tăng đoàn là cũng quá tiến bộ so với bối cảnh lịch sử xã hội lúc bấy giờ. Bởi vì bản chất của sự cải thiện quá tiến bộ trong tư tưởng tiến bộ lúc đó, cho nên người ta không thể đáp ứng được vì vậy gây ra tình trạng thoái lui. Vì vậy thời gian thành lập Giáo hội Ni giới tồn tại rất ngắn bởi vì dân chúng không thấu hiểu tình hình. Những Bà-la-môn cảm thấy đặc quyền đặc lợi trong hệ thống giai cấp bị đe dọayếu tố khác khiến cho sự suy giảm của giáo hội ni giới. Họ đưa ra sự tuyên truyền thù địch, căm ghét chống lại thái độ mới này trong việc đảm bảo nữ giới quyền tự do tín ngưỡng.

Tại Srilanka, Giáo hội ni giới phát triển rất mạnh mãi cho đến năm 1017 sau Tây lịch dưới sự cai trị của vua Manhinda (Di-lan-đà) đệ tứ. Sau đó Giáo hội biến mất và không thể khôi phục lại được. Nhưng giáo hội Ni giới được truyền sang Trung Hoa do các vị ni người Sinhalese và nó vẫn tồn tại ở đó cũng như ở Nhật Bản cho đến ngày nay. Tuy nhiên, trong truyền thống Phật giáo Ðại thừa họ chiếm lấy vị trí địa vị phụ so với Tăng sĩ mà thôi. 

Hướng Ðến Sự Bình Ðẳng Tự Do

Kỳ vọng của kỷ nguyên hiện đại trong thế kỷ 19 và thế kỷ thứ 20 rất khác với thời đại của Ðức Phật. Sự tự do của nữ giới và sự công bằng bình đẳng đạt được nhiều bước đặc biệt là trong xã hội Phương Tây. Ðiều này diễn ra là nhờ kết quả cuả những khuynh hướng hiện đại, và tư tưởng, nền giáo dục hiện đại cho nữ giới trong tất cả các lãnh vực giáo dục từ sơ cấp cho đến đại học. Susan B. Anthony, một người Mỹ đi tiên phong mở đường cho cuộc vận động quyền bình đẳng cho nữ giới vào năm 1848, hơn 148 năm trước đây. Kể từ đó những phong trào và cuộc tranh đấu cho những mục tiêu rộng hơn đã dẫn đến những phụ nữ đi tiên phong và nhiều tổ chức phụ nữ ra đời. Những người này tin rằng nữ giới một vai trò quan trọng trong trong lĩnh vực yêu tổ quốc cùng với nam giới góp phần xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua một xã hội và một quốc gia tốt đẹp hơn. 

Kể từ năm 1848, nhiều phong trào có tổ chức rất phổ biến đòi hỏi cơ hội được giáo dục bình đẳng, bình đẳng quyền chính trị, kinh tế cho nữ giới. Ở phương Tây, điều kiện của nữ giới được nâng cao do những điều kiện bắt nguồn từ cách mạng công nghiệp, phong trào nhân quyềnphong trào phụ nữ đòi quyền bình đẳng. Nhưng ở Á châu và những quốc gia khác, nơi mà nến công nghiệp không mấy tiến bộ, những sự cải cách được mang lại nhờ vào những nhà cải cách với một cơ sở Tôn giáo mãnh liệt.

Trong 50-60 năm qua sự phát triển đều đều sự tham gia của nữ giới vào đời sống kinh tế, xã hội, cũng như chính trị. Sự thành công như thế đạt được bởi nữ giới gần đây trong các lãnh vực đáng kính phục - như trong lĩnh vực khoa học, trong kinh doanh, kinh tế và thậm chí trong lĩnh vực chính trị, có thể được diễn tả như là một hiện tượng. Mỉa mai thay, mặc dù một số nữ giới đã đạt đến địa vị tối cao trong vũ đài chính trị như Thủ Tướng quốc gia (PM), ở một số quốc gia khác, xã hội đương thời chưa đưa ra quyền đi bầu cho phụ nữ. Ngày nay, mặc dầu hầu hết các quốc gia trên thế giới chấp nhận một thái độ công bằng hơn và đã mở nhiều cơ hội giáo giục và hướng nghiệp cho nữ giới. Tuy nhiên trên thực tế vẫn còn một số quốc gia về hình thức bên ngoài dường như đã xóa bỏ sự phân biệt đối với nữ giới, nhưng bên trong vẫn còn tồn tại.

Họat động thế giới nhằm nâng cao vai trò địa vị của nữ giới bắt đầu bằng hội “League of Nations” (Liên Hợp Quốc) chỉ thời gian ngắn sau chiến tranh thế giới thứ I. Sau này hiến chương liên hiệp quốc đi xa hơn nữa nhằm đảm bảo những nguyên tắc tự do và quyền bình đẳng cho tất cả nữ giới. Uỷ ban chuyên phụ trách về quyền và địa vị của phụ nữ, một bộ phận của Liên Hiệp Quốc điều tra thăm dò về tình trạng phân biệt dựa trên giới tính và thảo luận kỹ càng những câu hỏi liên quan đến quyền chính trị của nữ giới, quyền được hưởng theo năng lực, địa vị của người phụ nữ trong luật pháp, quốc tịch của người nữ sau khi lập gia đình, cơ hội giáo dục và kinh tế cho nữ giới, sự trợ giúp về mặt kỹ thuật và sự tham gia của nữ giơiù.

Mặc dầu nhiều điều đã được hoàn tất nhờ vào những phong trào đòi quyền được đi bầu của phụ nữ, và các tổ chức thế giới có quan hệ đến sự tham gia của nữ giới trong nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, và chính trị nhưng vấn đề tự do thực sự vẫn chưa được giải quyết.

Tự Do Theo Phật Giáo

Tự do thực sự là tự do khỏi tất cả càc trói buộc. Tự do chỉ đạt được thông qua sự tu tập đúng đắn và sự thanh tịnh hóa tâm. Làm sạch tất cả các lực hoại của tham, sân và si. Không có những cuộc tranh luận công chúng nào, cuộc biểu tình và những hiến chương quốc tế có thể mang lại cho con người hoàn toàn tự do. Sự tự do chỉ có thể đạt được nhờ vào sự nỗ lực tinh thần của từng cá nhân thông qua việc thực hành đều đặn phương pháp thiền mà Ðức Phật đã dạy. Ðức Phật là được xem người đầu tiên giải phóng phụ nữ khỏi trói buộc của phong tục xã hội và là người làm thăng hoa một lối sống rất dân chủ. Chính trong Pháp của Phật mà nữ giới không bị khinh bỉ, xỉ nhục, xem thường, nhưng còn đưa ngang địa vị của nam giới trong những nổ lực để đạt trí tuệ và giải thoát. Và đây cũng là tiếng nói của nhân bản, dân chủ bình đẳng và sớm nhất trang lịch sử nhân loại, giải phóng nữ giới ra khỏi vòng ràng buộctối tăm của cuộc sống bị đè nặng bởi các nền văn hóa chậm tiến bộ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7801)
Thưa Đại Vương, những người, có được tài sản lớn, mà không bị chúng làm say đắm... rất hiếm hoi trên đời này... Diệu Liên Lý Thu Linh
(Xem: 7843)
Bạo lực, khủng bố đã xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau trong những trường hợp khác nhau có liên quan đến cuộc đời của đức Phật... Thích Huệ Pháp dịch
(Xem: 8962)
Chánh Ngoa Tập (Uốn nắn những điều sai ngoa) trích từ bộ Vân Thê Pháp Vựng, Đời Minh, chùa Vân Thê ở Cổ Hàng, Sa-môn Châu Hoằng soạn, Như Hòa dịch.
(Xem: 26140)
Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam, Tập 1 và 2; HT Thích Trí Thủ chủ trương, Lê Mạnh Thát chủ biên
(Xem: 13818)
Các tác phẩm Phật giáo viết bằng Buddhist Hybrid Sanskrit xuất hiện sau khi Pāṇini đã hoàn thành việc chuẩn hóa tiếng Phạn vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 trước dương lịch.
(Xem: 27984)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 19857)
Tu Tuệ là cách tu tập bằng thiền định phân giải, tức hướng vào mục tiêu phát huy sự hiểu biết, một sự hiểu biết siêu nhiên về bản chất đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố...
(Xem: 7779)
Nghiệp không phát động từ bên ngoài mà sinh ra từ bên trong tâm thức của chính mình. Mỗi hành động (karma) đều tạo ra một hậu quả.
(Xem: 7618)
Làm sống lại những tiến bộ của người xưa, mỗi Phật tử sẽ trở thành gạch nối giữa quá khứhiện tại... Đỗ Thuần Khiêm
(Xem: 7483)
Khái quát trên đủ thấy Ðại Tạng kinh Hán văn là một bảo vật vô giá của Phật giáo và chung cho cả nền văn hóa thế giới... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 8037)
Cũng giống như trong Phật giáo, vạn pháp không hiện hữu, chỉ có mối liên hệ của chúng là hiện hữu... Trịnh Xuân Thuận
(Xem: 9748)
Trên thực tế, tất cả giáo huấn của Đức Phật đều nhằm giúp chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Phương pháp tiếp cận thật sự rất hợp lýthực tiễn.
(Xem: 22745)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 16929)
Khi Đức Phật ra đời, Ngài đã chỉ bày rõ ràng, cặn kẽ cho người xuất gia cũng như người tại gia ở từng địa hạt một của tâm linh... HT Thích Như Điển
(Xem: 8554)
Đức Phật A Di Đà không tự làm cho tội của chúng sanh tự tiêu hủy, mà cảnh giới của Ngài là nơi những chúng sanh ấy có thể nương nào đó để tồn tạitiến tu thêm nữa... HT Thích Như Điển
(Xem: 10407)
Phương pháp chuyển hóa tâm thức của Đạo Phật không chỉ là một vấn đề niềm tin mà cũng là một niềm tin đạt đến được qua thiền phân tích... Đức Đạt Lai Lạt Ma
(Xem: 10587)
Sau khi dạy cho chúng ta hiểu khổ là gì và nguồn gốc của khổ, Đức Phật đã chỉ cho chúng ta con đường diệt khổ, tức là Bát Chánh Đạo...
(Xem: 11278)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần TàiThổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
(Xem: 9900)
Phật giáo Mỹ sẽ phải phản ánh những nguyên tắc dân chủ, trong cái nghĩa “tự do và công lý cho mọi người”.
(Xem: 10573)
Muốn được giải thoát, trước hết chúng ta phải quan sát sự vật một cách thật cặn kẽ để có thể biết được và hiểu rõ bản chất thật sự của chúng.
(Xem: 12709)
Ý niệm về kinh liễu nghĩa và kinh không liễu nghĩa song hành với ý niệm về hai sự thật: Sự Thật Tương ĐốiSự Thật Tuyệt Đối.
(Xem: 8806)
Bản-thể-của-Phật còn gọi là Như Lai Tạng, Phật Tính, Pháp Giới, Chân Như... (tiếng Phạn là Tathagatagarbha), là một khái niệm quan trọng của Đại Thừa Phật Giáo.
(Xem: 19873)
Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
(Xem: 20834)
Bát chánh đạocon đường tâm linh có khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính...
(Xem: 21387)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
(Xem: 13447)
Phật pháp ẩn tàng trong tất cả sự sự vật vật, và con đường giác ngộNhư Lai tuyên thuyết vốn dành cho tất cả chúng sinh có duyên được tiếp cận với đạo Phật.
(Xem: 10574)
Biết thân là huyễn mộng còn khó vứt bỏ huống hồ người chẳng giải ngộ. Nương vào lời Phật mà hành, tự ta mới có thể chuyển mệnh...
(Xem: 9547)
Sáu ba-la-mật là Bồ-tát hạnh. Bồ-tát hạnh gồm có hai sự tích tập: tích tập phước đức là làm lợi lạc cho người khác và tích tập trí huệ là xóa tan bóng tối vô minh...
(Xem: 26766)
Theo giáo lý đạo Phật, không ai có thể siêu độ cho ai, không ai có thể giải thoát cho ai, ngoại trừ chính cá nhân người đó.
(Xem: 10752)
Những Tỷ-kheo trong hội chúng bậc Thánh rõ biết “Đây là khổ”. Vì thấy rõ khổ nên nhàm chán, viễn ly, không tham danh vọng...
(Xem: 12138)
Trung quán tông luận phá mọi kiến giải về Thực tướng, không phải để phủ nhận Thực tướng mà để đưa đến Prajña (trí tuệ Bát-nhã)...
(Xem: 30908)
Đây là bộ sách trích lục những từ ngữ trong phần “Chú Thích” và “Phụ Chú” của bộ sách GIÁO KHOA PHẬT HỌC do chúng tôi soạn dịch...
(Xem: 14140)
Người Phật tử, dù là xuất gia hay tại gia đều không thể sống buông thả, phóng dật. Bởi lẽ, chúng ta nhận thức đời người là vốn quý, cuộc sống lại có hạn.
(Xem: 11145)
Môn Nhân minh học Phật giáo dạy chúng ta tư duy đúng đắn để có nhận thức đúng đắn, là chìa khóa của mọi thành công ở đời.
(Xem: 11095)
Ý thức sâu sắc của người Phật tử đối với tầm quan trọng thực tiễn của hiện tại khiến cho họ năng động hơn, tỉnh táo hơn, làm việc hết mình trong hiện tại.
(Xem: 11245)
Đạo Phật nhắc nhủ chúng ta, muốn giác ngộgiải thoát, đi theo con đường Phật chỉ bày thì phải đi, phải tu, chứ không thể nói suông được.
(Xem: 11637)
Tất cả Phật tử chúng ta hãy sống thiện như những cái cây có bộ rễ toàn hút những chất ngọt trong đất. Nhất định đời sống chúng ta sẽ an lạc hạnh phúc.
(Xem: 12743)
Để dạy Vô ngãVô phân biệt trong khi hành động theo cách phân biệt kỳ thị là không phù hợp lời nói với hành động.
(Xem: 24057)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
(Xem: 14924)
Hiện tại là giờ phút duy nhất mà mình có thể chọc thủng được bức màn thương đau, bức màn vô minh để có thể tiếp xúc được ngay với an lạc, với hạnh phúc, với tuệ giác.
(Xem: 11650)
Góp duyên để người xuất gia hoàn thành sứ mạng thiêng liêng đồng nghĩa với hạnh nguyện hộ pháp.
(Xem: 20266)
Nếu ai bị ái làm khổ thân mà diệt được thì gọi là cứu cánh, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn, cứu cánh vô dư (Niết-Bàn).
(Xem: 10613)
Trong các thứ hạnh phúc, được thực tập và sống theo lời Phật dạy là an vui, hạnh phúc lớn nhất. Nhờ đó, ta có được bình yên, hạnh phúc thật sự...
(Xem: 10388)
Muốn vô hiệu hóa cơn giận, trước khi nó bộc phát, Phật dạy ta hãy thường xuyên quán chiếu, xem xét sâu vào nội tâm để ta luôn tỉnh giác từng tâm niệm của mình.
(Xem: 12290)
Xin hãy đọc Kinh điển với tâm sáng suốt thanh tịnh, không vội tin chắc vào bất kỳ điều gì, mà phải nỗ lực thông qua sự hành trì thực nghiệm...
(Xem: 11502)
Sự thật về mọi sự là vô thường, khổ, vô tự tánh, vô ngã, giả hợp, như mộng, như huyễn được đạo Phật gọi là chân lý tuyệt đối, tối hậu (chân đế).
(Xem: 14304)
Cùng với chánh niệm thường trực, tàm và quý chính là hai nhân tố vô cùng quan trọng để mỗi người tự răn nhắc mình hướng thượng và thăng hoa.
(Xem: 11956)
Do định sinh trí huệ, dùng trí huệ này quán sát các pháp sẽ thấy biết như thật, quán sát vũ trụ vạn vật đúng như nó là, không sai sót mảy may.
(Xem: 24629)
Những gì Đức Phật dạy chúng ta, bằng hai con đường: tâm linh và khoa học con người sẽ đạt được cứu cánh giải thoát khỏi tất cả mọi ràng buộc...
(Xem: 12354)
Chúng ta phải cố gắng loại trừ tất cả những cảm xúc tiêu cực và phát triển những cảm xúc tích cực - vô hạn lượng - đặc biệt trong sự thực hành Phật Giáo...
(Xem: 22289)
Để thành tựu được lễ dâng y kathina, người thí chủ cần phải có sự hiểu về tấm y gọi là “Y Kathina” và nghi thức làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng.
(Xem: 12572)
Đối với nhà Phật cho là con người ai cũng có Phật tánh, mà có Phật tánh tức là có tánh tốt.
(Xem: 12724)
Có thể nói, sự hiểu biết đúng đắn thuyết nhân quả nghiệp báo của đạo Phật sẽ tạo cho mỗi người một ý thức trách nhiệm rất cao đối với cá nhân mình và xã hội.
(Xem: 12641)
Đã là người đệ tử thì chúng ta phải tin và hành theo lời dạy của Phật, đó mới đúng là người đệ tử chân chánh, biết tôn sư trọng đạo, hiếu nghĩa trọn vẹn.
(Xem: 16820)
Có một thời gian Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên phụ trách trông coi việc dựng thiền-thất tại vườn Lộc-Dã; một hôm trong lúc Tôn-giả đang đi kinh hành trên khoảng đất trống...
(Xem: 13752)
Bất cứ một hiện tượng nào được phát sinh ra cũng đều phải nhờ vào một sự kết hợp của nhiều nguyên nhân và nhiều điều kiện...
(Xem: 13043)
Cách tốt nhất để vượt thắng những điều không may, hay những thứ xui xẻo hãy tự mình làm nên những công đứcthiền quán về tánh không...
(Xem: 13501)
Nghiệp báo của sự tàn phá môi trường được phản ánh trong cuộc thảm sát đẫm máu bạo tàn dòng họ Thích Ca (Sakyā) bởi lòng hiềm thù mê muội của vua Tỳ Lưu Ly...
(Xem: 12580)
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính...
(Xem: 14497)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant