Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Về một số từ “khó hiểu” trong Kinh Niệm Xứ

09 Tháng Giêng 201808:47(Xem: 4788)
Về một số từ “khó hiểu” trong Kinh Niệm Xứ
Về một số từ “khó hiểu” trong Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta)

Lê Tự Hỷ

      Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán, đã được nhiều bậc thầy đạo cao đức trong dịch từ nguyên văn Pāli ra Việt văn. Một trong những bậc thầy là Hòa thượng Thích Minh Châu, Tiến sĩ Phật học, nguyên Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh trước 1975, nguyên Trù trì Thiền viện Vạn Hảnh, Tp Hồ Chí Minh cho đến khi viên tịch cách đây vài năm.
     Cách đây vài tháng một vị thầy có nói với tôi rằng thầy nghi các bậc thầy dịch thành câu “quán thân trên thân” là dịch từ bản Anh ngữ chứ không phải dịch từ bản Pāli, và hỏi tôi có rành Pāli không và xem lại thử sao. Tôi thưa chỉ biết chút chữ Phạn chứ Pāli thì biết sơ sơ. Nhưng tôi vẫn ghi nhớ lời thầy. Nay tôi xin trình bày ý kiến như sau.
      Ngài Minh Châu đã dịch từ Pāli ra Việt bốn câu ứng với bốn phép quán:

(1) “kāye kāyānupassī viharati” = (vị Tỷ-kheo) sống quán thân trên thân

(2) “vedanāsu vedanānupassī viharati” = (vị Tỷ-kheo) sống quán thọ trên các thọ

(3) “citte cittānupassī viharati” = (vị Tỷ-kheo) sống quán tâm trên tâm
(4) “dhammesu dhammānupassī viharati” = (vị Tỷ-kheo) sống quán pháp trên các pháp [1]
     Một số vị khác đã thay chữ “trên” trong bản dịch của Hòa thượng Minh Châu bằng chữ “trong” hay “như”. Vậy chúng ta có 3 câu:
    Sống quán thân trên thân, Sống quán thân trong thân, Sống quán thân như thân

     Mặc dầu đoạn kế tiếp của bài kinh giải thích chi tiết khá dài thế nào là “sống quán thân trên (/trong/như) thân”, nhưng về mặt ngữ nghĩa của tiếng Việt thì câu “sống quán thân trên (/trong/như) thân” cũng như  “thân trên (/trong/như) thân” chứa hai chữ “thân” hai bên chữ “trên /trong/như” là một cấu trúc “lạ”, không tạo  cho người đọc một ý nghĩa rõ ràng, xác định nào cả, có vẻ mơ hồ, nên gây hoang mang …      

   Trong nhiều bản dịch ra Anh ngữ thì câu tương ứng cũng có biến đổi như:

(i) A monk dwells contemplating (the nature of) the body in the body = một vị tăng sống đang quán (bản chất của) thân trong thân [2]
(ii) The monk contemplates the body as body = Vị tăng quán thân như thân [3]
(iii) He dwells contemplating his/the body = Vị tăng sống đang quán thân của mình [4]
(iv) He dwells as a body-contemplator in relation to the body = Vị tăng sống như một người quán thân đối với thân [5]
(v) A monk remains focused on the body in and of itself = Vị tăng liên tục chú tâm trên thân trong và của chính thân [6]

     Như vậy tất cả những câu Anh ngữ trên đây cũng có vẻ xa lạ với Anh ngữ thông thường và không rõ nghĩa, không cho người đọc một ý nghĩa rõ ràng, xác định nào cả.
      Bây giờ chúng ta xem nguyên văn Pāli của câu này để thử coi có ý nghĩasáng tỏ hơn các câu Việt dịch và Anh dịch trên đây không. Câu Pāli là:  “kāye kāyānupassī viharati” .
    Về mặc cú pháp, chúng ta nhận ra:
(a) kāye là Locative (Vị trí cách) số ít của kāya (m) [danh từ giống đực] = thân (body)
(b) kāyānupassī là Nominative (Chủ cách) số giống đực của kāya-anupassin, bổ nghĩa cho chủ từ của viharati [là vị tăng]; anupassin (a) [tính từ] = đang nhìn, đang quan sát thấu đáo (look thoughtfully for a long time at) , đang nhận biết rõ -- >  kāyānupassin (a) = kāya-anupassin (a) = đang quan sát thấu đáo về thân; đang quán thân [7]; ngoài ra, chúng ta cũng có thể phân tích anupassin = anu-passin; trong đó anu là tiền tố (prefix), ở đây có nghĩa “liên tục” [8]; passin là tính từ suy ra từ động từ passati, tức [dis + a; dis is changed to pass.] sees; finds; understands [9] --- > anupassin = anu-passin (a) = đang nhận biết liên tục -- > kāyānupassin (a) = kāya-anu-passin (a) = đang nhận biết liên tục về thân -- > đang nhận biết  liên tục [về các hiện tượng xảy ra] trong thân.
(c) viharati là ngôi ba số ít Thì hiện tại của động từ vi+har+a, có nhiều nghĩa như: lives; abides; dwells; sojourns [10], [11], trong này có các nghĩa “lives = nó sống”; “abides = nó tuân theo, nó tiếp tục”; “sojourns = nó tạm trú”; riêng với “dwells” thì các dịch giả nêu trên chỉ dùng nghĩa “To live as a resident, to reside, to exist in a given place  = sống tại, cư trú tại”.
    Có lẽ bởi vì chỉ dừng ý nghĩa của viharati tại đây cho nên các bậc thầy như Hòa thượng Thích Minh Châu và các vị khác đã phân câu “kāye kāyānupassī viharati” làm hai phần là (a) viharati = (vị ấy) sống; và (b) kāye kāyānupassī = quán thân (kāyānupassī) trên (/trong/như) thân (kāye). Vì vậy ghép lại dịch thành “sống quán thân trên (/trong/ như) thân
     Nhưng theo ý của tôi thì “dwells” ở đây còn một nghĩa rất quan trọng mà các vị không quân tâm tới, đó là : “to exist in a given state” = đắm mình vào một trạng thái cho trước” , như “dwell in joy = đắm mình vào niềm vui”, rõ hơn là nghĩa “to fasten one’s attention on something, especially persistently = buộc chặt sự chú tâm vào một sự vật, đặc biệt một cách liên tục”. Như vậy, ở đây “viharati” = “vị ấy quán”. Cho nên theo tôi, câu “kāye kāyānupassī viharati” có thể được chia làm hai phần khác với cách chia của quí vị nêu trên; đó là (a) kāye viharati = (vị ấy) quán thân; và (b) kāyānupassī  = đang nhận biết liên tục về thân -- >  đang nhận biết liên tục [những hiện tượng đang xảy ra] trong thân. Ghép lại, câu ấy được dịch thành “vị ấy quán thân là đang nhận biết liên tục những hiện tượng xảy ra trong thân.
     Như vậy sự khác biệt ở đây là: trong khi các ngài hiểu “viharati” là “sống” còn tôi hiểu là “quán” nên tôi ghép nó với “kāye” thành “kāye viharati” = “quán thân”; các ngài hiểu “kāyānupassī” = “quán thân” nên ghép nó với “kāye” thành “kāye kāyānupassī” = quán thân trên (/trong/như thân); còn tôi hiểu “kāyānupassī” = “đang nhận biết liên tục [những hiện tương xảy ra] trong thân. Và do đó cách hiểu của tôi cho biết “kāyānupassī” được dùng như định nghĩa của “quán thân” = “ kāye viharati”  

    Tóm lại, theo ý tôi bốn câu:

“quán thân trên (/trong/như)  thân”, “quán thọ trên (/trong/như) các thọ”, “quán tâm trên (/trong/như) tâm”, “quán pháp trên (trong/như) các pháp” có thể được dịch lại thành như sau:
 “kāye kāyānupassī viharati” = “quán thân là đang nhận biết liên tục những hiện tượng xảy ra trong thân”.
     tương tự:
 “vedanāsu vedanānupassī viharati” = “quán thọ là đang nhận biết liên tục những hiện tượng xảy ra trong các thọ”
“ citte cittānupassī viharati” = "quán tâm là đang nhận biết liên tục những hiện tương xảy ra trong tâm”
“dhammesu dhammānupassī viharati,” = quán pháp là đang nhận biết liên tục những hiện tượng xảy ra trong các pháp”

     Tôi, trước sau vẫn một mực vô cùng tôn kính các bậc tôn túc và vẫn biết việc tu học của bản thân không nghĩa lí gì so với bất cứ vị nào lấy Chánh Pháp của Phật giáo làm kim chỉ nam của cuộc sống, nhưng đã xin trình bày suy nghĩ như trên, kính mong quí thầy, quí cô và các thiện tri thức chỉ giáo cho.

05/01/2018
Lê Tự Hỷ


Tài liệu tham khảo:

1. Kinh Niệm Xứ, Hòa thượng Thích Minh Châu Việt dich, https://thuvienhoasen.org/a793/10-kinh-niem-xu-satipatthana-sutta.
2. Mahāsatipaṭṭhānasuttaṁ, edited and translated by Ānandajoti Bhikkhu, November 2005, 2nd revised version, October 2011 – 2555
3. Ole Holten Pind (one of the authors of Critical Pali Dictionary) , http://groups.yahoo.com/group/Pali/message/11207
4. Nibbanka, https://discourse.suttacentral.net/t/kaye-in-kaye-kayanupassi-viharati-not-spacial-locative-no-such-thing-as-body-in-the-body/5605 
5. Bhikkhu Bodhi, https://discourse.suttacentral.net/t/kaye-in-kaye-kayanupassi-viharati-not-spacial-locative-no-such-thing-as-body-in-the-body/5605
6. Majjhima Nikaya 10. Satipatthana Sutta, Frames of Reference , Translated by Bhikkhu ThanissaroBhikkhu Thanissaro, https://thuvienhoasen.org/a793/10-kinh-niem-xu-satipatthana-sutta
7. Pali-English Dictionary (Pali Text Society), http://www.buddhism-dict.net/ddb/
8. Mahāsatipaṭṭhānasuttaṁ, edited and translated by Ānandajoti Bhikkhu, November 2005, 2nd revised version, October 2011 – 2555
9. & 10. Pali-English Dictionary, http://www.buddha-vacana.org/toolbox/dico.html
11. Pali-English Dictionary (Pali Text Society), http://www.buddhism-dict.net/ddb/ 
                                 -------------------------  

 

 

   

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10107)
Phật giáo vào Anh quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ 19, qua các công trình dịch thuật kinh điển ở các nước Phật giáo Đông phương.
(Xem: 18505)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 14501)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 8801)
Nói đến “Tính Không” trong Đạo Phật là nói đến một vấn đề mà nhiều người còn thắc mắc, nhất là những người ngoại đạo...
(Xem: 8903)
Phẩm Quán Tứ đế của Trung luận, từ chỗ duyên khởi tức là không, cũng là giả danh về sau, tiếp theo nói: cũng là trung đạo.
(Xem: 8193)
Triết học Phật giáo Đại thừa có hai phương diện, đó là Triết học Phật giáo Đại thừa hay Tánh không luận và Du-già hành tông hay trường phái Duy thức...
(Xem: 8990)
Không là pháp quán chung của Phật giáo, nhưng pháp quán của các nhà Trung Quán không giống với pháp quán của các tông phái khác.
(Xem: 14145)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 8436)
Niệm tức là nghĩ nhớ, ức niệm, suy tưởng, chú tâm quan sát hay hướng tâm đến một đối tượng nào đó thuộc tâm thức và giữ cho đối tượng đó luôn luôn sinh động ở trong tâm...
(Xem: 15256)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13123)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 7801)
"Các thầy Tỷ kheo sau khi ta diệt độ, các thầy phải trân trọng, tôn kính tịnh giới, như người mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc..."
(Xem: 16623)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15488)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 8975)
Chấp nhận một hình thức Phật giáo rồi dấn thân bằng thực nghiệm, hành giả không cần phải dành quá nhiều công sức cho những vấn đề lý thuyết và những mục tiêu lý tưởng của các truyền thống khác nhau.
(Xem: 7925)
Pháp môn Tịnh độ được sáng lậptu hành dựa trên tư tưởng “Yếm ly Ta bà, hân cầu Cực Lạc”. Song vì sao phải yếm ly Ta bà và lại hân cầu Cực Lạc?
(Xem: 7083)
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận giải Nobel Hòa Bình 21 năm trước, ngài nói, "Tôi chỉ là một thầy tu giản dị".
(Xem: 11247)
Đạo Phậtđạo nhân quả (nhân nào quả nấy) trên cơ sở lấy “Tâm” làm gốc và được ứng dụng vào trong cuộc sống.
(Xem: 14237)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 10446)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20441)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 8769)
"Các người phải siêng năng tu tập các điều thiện, nhờ tu tập điều thiện mà được mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm tươi, sống yên ổn, vui vẻ, của cải dồi dào, uy tín đầy đủ"
(Xem: 9259)
Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành...
(Xem: 24080)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12629)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 7795)
Giải quyết vấn đề thoát khổ, Đạo Phật lấy tâm thức của con người làm trọng tâm, bất cứ hệ tư tưởng Phật giáo nào nếu tách rời tâm thức của con người thì Phật giáo không còn đất đứng.
(Xem: 16217)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle...
(Xem: 15565)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 8718)
Indriya có nghĩa là căn, gốc, khả năng, làm chủ, cốt yếu... Bala là lực, là sức mạnh. Vậy ngũ căn là 5 trạng thái tâm căn bản, 5 yếu tố tâm lý căn bản có khả năng kiểm soát tâm, làm chủ tâm.
(Xem: 7629)
Nghiệp là một luật rất công bằng cho tất cả mọi loài, mình tạo thì mình hưởng. Làm phước được phước, làm tội chịu tội.
(Xem: 14595)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 9283)
"Vô Ngã" là vấn đề tương đối hơi khó và khiến cho nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật phải tốn nhiều công sức để truy cứu, tìm hiểu.
(Xem: 15472)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 15121)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16597)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 13444)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 15295)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 7820)
Tất cả đều được tiếp nối dưới một hình thức này hay một hình thức khác. Đám mây luân hồi ra thành cơn mưa và cơn mưa luân hồi ra thành ra nước trà.
(Xem: 7479)
Đức Phật trong thực tế đã không đưa ra các nghi thức và các nghi lễchúng ta đang thực hiện ngày hôm nay, Ngài cũng không vì vấn đề nghi thứcnghi lễ mà khuyến khích dân chúng...
(Xem: 7331)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu.
(Xem: 8997)
"Tôi nhất định phục hưng Chánh Pháp. Tôi chỉ cho phép Phật GiáoChánh Pháp chứ không có Mạt Pháp! Bất cứ nơi nào tôi đến, nơi đó sẽ có phước đức, trí huệ và được giảm bớt tai ương."
(Xem: 13999)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 8008)
Mục đích của bài viết này là để hổ trợ trong việc gia tăng sự hiểu biết tốt hơn về tôn giáo, sự khoan dungý nghĩa sâu sắc của các tôn giáo khác từ quan điểm của Phật giáo...
(Xem: 7835)
Dường như trong Kinh Tạng ít nhất có hai lần nhắc đến trường hợp Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn...
(Xem: 15779)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10253)
Chúng ta luôn bị bất an, lòng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sinh mạng, quyền lợi, địa vị, vợ con, tiếng tăm, của cải… của mình bị thương tổn hay bị đe dọa.
(Xem: 7676)
Đạo Phật chủ trương trong hiện tại phải sống giải thoát cho chính mình và giúp đỡ mọi người vượt qua nỗi khổ niềm đau để đạt được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
(Xem: 7486)
Trung-quán-luận hay Trung-quán Ngâm khúc (Madhyamaka-káriká) là một tập thơ của Nàgàrjuna để giảng Giáo lý của đức Phật.
(Xem: 12757)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 7839)
Các thí dụ trình bày trong bản kinh này đều gần gũi với sự vật, hiện tượng xảy ra, liên hệ trực tiếp đến đời sống con nguời.
(Xem: 8082)
Bài chuyển ngữ dưới đây sẽ tiếp tục đưa chúng ta bước vào một thế giới khác của vấn đề này liên quan đến các hiểu biết khoa học tân tiến ngày nay.
(Xem: 13965)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 7268)
Tổ Chức Y Tế Thế Giới (OMS / WHO) định nghĩa sức khoẻ là một "thể dạng an vui toàn diện, từ thể xác đến tâm thần và cả cuộc sống trong xã hội
(Xem: 9172)
Trong Thiện kiến tì-bà-sa cũng có thuyết này, nhưng vì độ người nữ xuất gia nên tổn chính pháp năm trăm năm.
(Xem: 9635)
“Sắc tức là không, không tức là sắc” được trích ra từ kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đã được tinh giản, công thức hóa và xem như một thành ngữ.
(Xem: 13069)
Hiện nay Phật giáo có tiếng nói vô cùng quan trọng đối với Liên hiệp quốc, vì đã đánh thức được lương tri, lương tâm con người.
(Xem: 7568)
Nếu không có ngã, sự liên quan giữa một hành nghiệp và kết quả của nó là điều không thể có, vì nếu tác giả của một hành nghiệp chết, ai sẽ có kết quả?
(Xem: 10117)
Chúng ta lễ lạy để tịnh hóa mọi tình huống trong quá khứ khi ta không kính trọng người khác... Nguyên tác: Lạt Ma Gendyn Rinpoche; Liên Hoa dịch Việt
(Xem: 7180)
Sau khi Đức Phật diệt độ, Tôn giả Maha Kassapa đã triệu tập 500 vị A-la-hán vân tập tại thành Rājagaha để kiết tập kinh điển... Chúc Phú
(Xem: 30867)
Tăng đoàn bắt đầu hoạt động rộng rãi và có ảnh hưởng kể từ khi Phật niết bàn... Thích Nữ Trí Nguyệt dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant