Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Năm Tầng Pháp Như Lai

19 Tháng Bảy 201804:56(Xem: 5996)
Năm Tầng Pháp Như Lai

Năm Tầng Pháp Như Lai 

Mãn Tự

Năm Tầng Pháp Như Lai


Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La MậtĐức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ ĐềNhư Lai có nhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch Thế TônNhư Lai có nhục nhãnNhư Lai có Thiên Nhãn, có Tuệ Nhãn, có Pháp Nhãn, có Viên Mãn Giác Ngộ nhãn không? (đây không dùng từ Phật vì từ Phật bị những phàm phu vô trí, những người mê tín dị đoan lợi dụng quá nhiều, vì vậy bài viết này sẽ dùng mười hai danh tự lẫn lộn nói lên trí tuệ Đức Thế Tôn).

Sau khi ngài Tu Bồ Đề minh định Đức Như Lai cóNgũ nhãnTuy nhiên để các vị tu sĩ không nghi ngờ vì quá kính trọng mà ngài Tu Bồ Đề tùy thuậnmù quáng tin nhận những gì Đức Thế Tôn nói ra. Từ trên thượng tầng Đại Viên Mãn Giác ngộ nhãn,xuyên qua bốn tầng lớp đó là Pháp nhãnTuệ nhãnThiên nhãn và Nhục nhãn Đức Như Lai đặt câu hỏi ngài Tu Bồ Đề: Này Tu Bồ Đề như cátsông Hằng Như Lai gọi là gì? Bạch Thế Tôn Như Lai gọi là cát - Tu Bồ Đề trả lời. Câu trả lời đó xác định Vô Tránh Tam Muội của ngài Tu Bồ Đề không lay động dù được nghe  giáo Pháp thậm thâm vi diệu mà chưa bao giờ ngài được nghe. Kinh Kim Cang đối với Nhị thừa Thanh VănDuyên giác thì đã vượt qua cấp độ tiếp nhận của các ngài nên Đức Như Lai cẩn trọng như vậy.

Với cát sông Hằng Đức Thế Tôn vẫn gọi là cát có nghĩa là đồng nhục nhãn của sự nhận thứcchung với loài hữu tình, như vậy còn năm căn là tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Vì sao Đức Thế Tôn không đưa lên mà chỉ nói Nhãn căn mà thôi. Có thể trình độ thính chúng vào lúc đó có nói ra cũng khôngtiếp nhận được. Tuy nhiên phải nhận định rằng Đức Như Lai một nhãn căn như vậy thì năm căn khác cũng là như vậy. Nếu không thì không thể gọi là Thiên Nhân Sư là Vô Thượng Bồ Đề là ĐạiViên Mãn giác…

Kinh luận hiện thời có rất là nhiều mà sự sai biệt mâu thuẫn cũng không là ít, không phải sự tranh luận đó bây giờ mới có mà theo Kinh điển vào thời Thế Tôn hiện tiền cũng đã xảy ra rồi. Như vậy sự sai biệt, sự mâu thuẫn trong Kinh dẫn ra sự tranh luận dai dẳng chưa có hồi kết cuộc là đúng hay sai? Hoàn toàn đúng hết, tuy nhiên sự đúng đó chỉ nằm trong từng tầng giáo Pháp Như Lai.

Phiền não của loài hữu tình là trùng trùng vô tận vì nó trộn lẫn, chất chồng lớp lớp tính theo tâm sởđối cảnh duyên. Còn nếu quay lại nhìn thẳng vào thân tâm thì có “tận”. Tận ở đâu? tận ở sáu cănvì vậy Kinh Lăng Nghiêm Đức Thế Tôn dạy rằng: “luân hồi phiền não cũng bởi sáu căn, mà giải thoát cũng sáu căn”. Ngoài sáu căn ra thì tuyệt nhiên không có gì là luân hồi phiền não cũng không có gì giải thoát.

Đức Thế Tôn Như Lai đắc Vô Thượng Bồ Đề nên sáu căn viên thông, một Nhãn căn có năm tầng thì năm căn khác cũng như vậy. Đức Thế Tôn tùy theo pháp hội tùy theo căn cơ thính chúng bằngChánh đẳng Chánh Giác Nhãn quán sát Ngài biết căn cơ thính chúng trong Pháp hội nên dùngnhục nhãn nói Pháp để điều phục dùng thiên nhãn nói Pháp để điều phục hay dùng Huệ nhãn,Pháp nhãncho đến Vô Thượng Bồ Đề nhãn để nói Pháp. Hay dùng Nhục nhĩ, Thiên nhĩ, Huệ nhĩ,Pháp nhĩcho đến vô thượng bồ đề nhĩ và bốn căn tỉ, thiệt, thân, ý cũng như vậy, đều có năm tầng.

Vì Đại Bi Tâm bình đẳng không phân biệt đẳng cấp tất cả loài hữu tình, từ thành phần thấp nhất tận cùng đáy xã hội cho đến giai cấp cao sang quyền quý đứng trên đỉnh nhân gian. Bất cứ thành phần nào giai cấp nào có duyên đến với Ngài, thì tùy theo căn cơ mà Thế Tôn nói Pháp giúp họđược giải thoát ngay trong hoàn cảnh khốn cùng, hay dứt nghi ngờ, những gì họ từng học qua nhưng không nhận thức ý nghĩa một cách rõ ràng mù mờ trong lí luận. Luôn luôn như vậy bất kể ngày đêm sáng trưa chiều tối trong suốt 49 năm ngài thị hiệncho đến khi Ngài quán sát thấy rằng những giáo Pháp mà ngài chứng ngộ cùng trải nghiệm qua đã truyền lại hết cho nhân gian và cũng có những bậc đệ tử trí tuệ nhận lãnh Giáo Pháp để lưu truyền nên Ngài thị hiện Niết bàn.

Vì thế gian loài hữu tình mọi sự nhận biết phát sinh từ sáu căn làm cội gốc, nên Đức Như Lai cũng nương sáu căn mà nói Pháp. Tuy nhiên Thế Tôn là bậc Đại Giác Ngộ nên sự thấy biết mỗi căn có năm tầng, với những hữu tình sơ cơ học đạo thì mỗi tầng như vậy là nấc thang trời không dễ gì với tới. Thí dụ như thính chúng Pháp hội nghe Thế Tôn giảng Pháp trong giới hạn phạm vi nhục nhãn, nhục nhĩ hay tỉ… thì đã là một sự xa vời, chứ đừng nói chi tới huệ nhãnPháp nhãn, hay huệ nhĩ, Pháp nhĩ…

Với loài Ngườichư ThiênNhị ThừaBồ Tát, do sự mê mờ nhiều hay ít mà phân ra cấp độ như vậy.Tuy nhiên những cấp độ thì lấy biên độ nào, lấy giới hạn để phân chia ra. Đó là lấy Chân như làm tâm điểm, so sánh đối chiếu trình độ thâm nhập xa hay gần mà có sự sai biệt bốn cấp độ như trên.Đức Như Lai thị hiện chỉ cho chúng sanh con đường giải thoát nên Pháp ngài nói ra là tùy thuậntheo trình dộ căn cơ của thính chúng trong Pháp hội không lẫn lộn vì ngài có Tri căn Trí lựcKinh điển lưu truyền đến bây giờ chúng ta vẫn đinh ninh là từ Đức Như Lai nói ra, thật ra thì ngài không nói gì hết. Vậy Kinh từ Nguyên Thủy đến Đại Thừa không phải từ Đức Thế Tôn thuyết hay sao? Nếu Đức Như Lai có thuyết Pháp thì còn năng thuyết, sở thuyết thì làm sao đúng với hai chữ Như Lai. Những Kinh điển mà chúng ta có là do Hậu Đắc Trí đối cảnh sở duyên tâm Đại Bi vận hành mà phát ra âm thanhÂm thanh đó không thật không hư vì xuất phát từ Chân Như nên là vô tận.

Vì từ Chân Như từ vi tận nên những vị tu học hay học Kinh thì nhận ra sự huyền diệu đó, vì cũng một quyển Kinh hay một câu Kinh mà càng tu học thì mỗi lúc càng thấy biết rộng ra bay bổng, ý nghĩa càng thâm diệu, càng sâu xa hơn lên.

Có một bản tiểu luận giải thích về năm thời kỳ Đức Thế Tôn thuyết Pháp từ ban đầu Thành Đạongài thuyết Kinh Hoa Nghiêm cho đến khi sắp Niết Bàn ngài thuyết Kinh Đại Bát Niết Bàn. Thật raluận giải năm thời kỳ thuyết Pháp của Đức Như Lai không được thuyết phục lắm vì có những phần khập khiễng và mâu thuẫn so sánh với lịch sử truyền thừa.

Đức Thế Tôn Như Lai mỗi quan năng có năm tầng trí tuệ như mắt gồm có: 1. Nhục nhãn; 2. Thiên nhãn; 3. Huệ nhãn; 4. Pháp nhãn; 5. Vô thượng bồ đề nhãn. Y theo Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa năm quan năng còn lại cũng đều có năm tầng trí tuệ như vậy. Không phải Pháp có năm tầng, mà năm tầng đó là trình độ, là căn cơ loài hữu tình còn Đức Như Lai thì tùy thuận vì trình độcăn cơ loài hữu tình thấy sai biệt là như vậy. Tuy nhiên với Đức Như Lai thì: năm tức một, một tức năm, vì vậy tất cả Kinh điển đều có năm tầng trong đó, dù vậy điều quan trọng là có nhận ra Ẩn và Hiện hay không?

Ẩn, Hiện như thế nào? Khi Đức Thế Tôn trong Pháp hội mà trình độ căn cơ thính chúng chỉ là phàm phu bình thườngnhận thức mọi việc xung quanh bằng năm quan năng thô phù bên ngoài, sống theo phong tục tập quán và sự hiểu biết chỉ là lớp trước truyền lại lớp sau, chưa hề biết đến quan năng thứ sáu tức Ý thức hay là phân biệt thứcPháp hội mà thính chúng như vậy Đức Như Lai tùy thuận nói Pháp Thập Thiện… thiết lập căn bản đời sống cho chúng sanh.

Đức Thế Tôn luôn luôn dạy rằng: “Như sư tử dù bắt thỏ cũng tận lực” Pháp Thập Thiện gồm cóthân ba, miệng bốn, như vậy thì Thiên nhãnHuệ nhãnPháp nhãnVô thượng Bồ Đề nhãn, ở đâu trong Pháp Thập Thiện Như một viên ngọc đẹp đẽ không tì vết dù có ở trong bụi đất thì cũng không mất đi tính chất của nó. Đức Thế Tôn tùy thuận căn cơ chúng sanh mà thuyết Pháp Thập Thiện,tuy nhiên Pháp Thập Thiện đó là từ bậc Chánh đẳng Chánh giác nói ra. Đối với thế gian thì ngườihọc hành có rất khó nói chuyện vói người bình dân, người giàu khó nói chuyện với người nghèo, vua chúa quan quyền khó nói chuyện với người dưới mà chỉ ra lệnh mà thôi.

Pháp Thập Thiện mà Thế tôn thuyết không nằm trong hệ thống giáo lý nào lưu truyền từ trước, không học từ vị đạo sư nào, không theo một trình tự tín ngưỡng thần quyền  nào, không cầu khẩnvan xin vào đấng thần linh nào, mà tất cả mười điều đều lấy tự thân mỗi người làm chính.

Vì viên mãn Hậu Đắc Trí chứng Vô Thượng Bồ Đề ở ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác bất động hiện thân trước Pháp hội nói Pháp Thập Thiện. Trong bốn trí thì Đại Viên Cảnh Trí chiếu diệu như ánh sáng mặt trời chiếu soi không bỏ xót một vật nào. Bình đẳng tánh trí không phân biệt là cao, là thấp, Diệu Quan Sát Tríquán sát căn cơ Pháp hội thính chúng. Bằng Thành Tác Sở Trí thuyết lên Pháp Thập Thiện tương ưng trình độ chúng sanh. Với chúng sanh năm căn vì nương vào cái thân xương thịt nên gọi là “nhục căn” còn Đức Như Lai là Pháp thân nên là “Thành Sở Tác Trí”. PhápThập Thiện gốc từ đâu? Pháp Thập Thiện gốc từ hai chi đầu là Danh Tướng của năm tự tánh, thêm vào một phần nhỏ Phân biệt, còn Chánh trí và Như Như trong Pháp Thập Thiện như một bóng mờ. Không phải là không có Chánh Trí Như Như nhưng trình độ chúng sanh trong Pháp hội mà thấy nghe bằng nhục nhãn, nhục nhĩ… thì không làm sao nhận ra được, dụ như ban ngày bị bụi mù, mây mưa che lấp không thấy mặt trời, dù không thấy mặt trời nhưng sự sáng cũng do mặt trời mà có. Vì vậy Pháp Đức Như Lai nói ra dù trong thành phần nào cũng có đủ năm tầng tuy nhiên sự sai biệt là ẩn và hiện nên năm tức một, một tức năm.

Trong thời gian đó Pháp hội thính chúng mắt thấy tai nghe Đức Thế Tôn trên Pháp tòa giảng PhápThập Thiện thì cũng ngay thời gian đó vào một biên độ khác Chư Thiên cũng thấy Như Lai trênpháp tòa đang giảng Pháp sinh tử luân hồinhân quả, tức là Pháp mười hai nhân duyên từ vô minhđến lão tử. Cùng một thời gian nhưng hai biên độ khác nhau nên không thấy nhau vì nhục nhãn vàthiên nhãn không cùng cấp độ.

Cũng ngay thời gian đó ở một biên độ khác nữa thì chư vị Nhị Thừa Thanh Văn Duyên giác cũng đang thấy nghe Đức Thế Tôn trên Pháp tòa thân tướng ứng hợp với niềm tin của chư vị Thanh văn,Duyên giác, thuyết Tứ Thánh ĐếBát Chánh ĐạoThập Nhị Nhân DuyênVô NgãLục Ba La Mật… Bằng Huệ nhãn với chư vị Nhị thừa Đức Như Lai thuyết sự nhiễm tịnh các Pháp, sự sinh thành hoại diệt, sự khổ lạc các Pháp, và sự xuất ly Pháp khổ, và sau cùng là chứng Niết Bàn theo nguyện vọng ước muốn của chư vị nhị thừa.

Các vị Nhị Thừa đến với Thế Tôn toàn là người Bà-la-môn giáo, vì trước khi Thế Tôn thị hiện thì chưa có đạo giải thoát, vì để giải trừ sự chấp thủ sâu dày giáo lý Bà-la-môn, nên Thế Tôn phương tiện dùng hai trong ba tự tánh để thuyết Pháp, ba tự tánh đó là:

Một là Biên kế sở chấp tánh, hai là Y tha khởi tánh, ba là Viên thành thật tánh, Biên kế sở chấp là chư vị Bà-la-môn khi đến với Đức Thế Tôn thì giáo lí Vệ-đà vẫn còn nguyên trong tư tưởng của họ,vì vậy mới có mười câu hỏi siêu hình do tưởng thức đặt ra. Tuy có câu hỏi mà tuyệt nhiên không có câu trả lời, dù là từ ông tổ đầu tiên của trường phái Vệ-đà cho đến thời Đức Thế Tôn thị hiện, hơn nữa còn có vị dọa rằng sẽ bỏ đoàn thể Chư Tăng mà đi nếu Đức Thế Tôn không trả lời thỏa mãncâu hỏi của ông ta, hay đến nỗi chư vị đó còn yêu cầu rằng nếu Đức Thế Tôn biết thì trả lời biết, còn không biết thì nói là không biết.

Trong năm tự tánh “thức” là một là danh hai là tướng ba là phân biệt, bốn là chánh trí, năm là Như NhưBan sơ các vị Bà-la-môn đến với Đức Thế Tôn dù rằng nhận ra giáo lí Vệ-đà có cái gì đó không trung thực không đưa đến giải thoát thật sự theo mong cầu của họ. Để giải trừ chấp thủ“Danh”, “Tướng” thường hằng trong giáo lí Vệ-đà Đức Thế Tôn dùng tự tánh thứ ba là “Phân biệt” chỉ cho các vị đó rằng: Danh, Tướng mà các vị Bà-la-môn chấp thường hằng đó là “Biên kế sở chấp”. Vì sao? Vì là Nhị Nguyên vì  nó sinh-diệt bị chi phối.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15518)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13208)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19364)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24631)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15744)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37831)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13479)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13105)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17182)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13205)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17389)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21640)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13222)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14408)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12819)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13659)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28626)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23401)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34384)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28885)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32188)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11329)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12005)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26292)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17378)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14525)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34483)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13114)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12280)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13415)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40515)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26946)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14462)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13257)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13463)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12540)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13154)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12318)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11799)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12576)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17667)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12208)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12755)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18438)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14292)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12998)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11325)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12152)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13467)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10839)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11082)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10290)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28901)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25284)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26854)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25773)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18678)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23041)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34552)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32190)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant