Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Năm Tầng Pháp Như Lai

19 Tháng Bảy 201804:56(Xem: 6048)
Năm Tầng Pháp Như Lai

Năm Tầng Pháp Như Lai 

Mãn Tự

Năm Tầng Pháp Như Lai


Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La MậtĐức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ ĐềNhư Lai có nhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch Thế TônNhư Lai có nhục nhãnNhư Lai có Thiên Nhãn, có Tuệ Nhãn, có Pháp Nhãn, có Viên Mãn Giác Ngộ nhãn không? (đây không dùng từ Phật vì từ Phật bị những phàm phu vô trí, những người mê tín dị đoan lợi dụng quá nhiều, vì vậy bài viết này sẽ dùng mười hai danh tự lẫn lộn nói lên trí tuệ Đức Thế Tôn).

Sau khi ngài Tu Bồ Đề minh định Đức Như Lai cóNgũ nhãnTuy nhiên để các vị tu sĩ không nghi ngờ vì quá kính trọng mà ngài Tu Bồ Đề tùy thuậnmù quáng tin nhận những gì Đức Thế Tôn nói ra. Từ trên thượng tầng Đại Viên Mãn Giác ngộ nhãn,xuyên qua bốn tầng lớp đó là Pháp nhãnTuệ nhãnThiên nhãn và Nhục nhãn Đức Như Lai đặt câu hỏi ngài Tu Bồ Đề: Này Tu Bồ Đề như cátsông Hằng Như Lai gọi là gì? Bạch Thế Tôn Như Lai gọi là cát - Tu Bồ Đề trả lời. Câu trả lời đó xác định Vô Tránh Tam Muội của ngài Tu Bồ Đề không lay động dù được nghe  giáo Pháp thậm thâm vi diệu mà chưa bao giờ ngài được nghe. Kinh Kim Cang đối với Nhị thừa Thanh VănDuyên giác thì đã vượt qua cấp độ tiếp nhận của các ngài nên Đức Như Lai cẩn trọng như vậy.

Với cát sông Hằng Đức Thế Tôn vẫn gọi là cát có nghĩa là đồng nhục nhãn của sự nhận thứcchung với loài hữu tình, như vậy còn năm căn là tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Vì sao Đức Thế Tôn không đưa lên mà chỉ nói Nhãn căn mà thôi. Có thể trình độ thính chúng vào lúc đó có nói ra cũng khôngtiếp nhận được. Tuy nhiên phải nhận định rằng Đức Như Lai một nhãn căn như vậy thì năm căn khác cũng là như vậy. Nếu không thì không thể gọi là Thiên Nhân Sư là Vô Thượng Bồ Đề là ĐạiViên Mãn giác…

Kinh luận hiện thời có rất là nhiều mà sự sai biệt mâu thuẫn cũng không là ít, không phải sự tranh luận đó bây giờ mới có mà theo Kinh điển vào thời Thế Tôn hiện tiền cũng đã xảy ra rồi. Như vậy sự sai biệt, sự mâu thuẫn trong Kinh dẫn ra sự tranh luận dai dẳng chưa có hồi kết cuộc là đúng hay sai? Hoàn toàn đúng hết, tuy nhiên sự đúng đó chỉ nằm trong từng tầng giáo Pháp Như Lai.

Phiền não của loài hữu tình là trùng trùng vô tận vì nó trộn lẫn, chất chồng lớp lớp tính theo tâm sởđối cảnh duyên. Còn nếu quay lại nhìn thẳng vào thân tâm thì có “tận”. Tận ở đâu? tận ở sáu cănvì vậy Kinh Lăng Nghiêm Đức Thế Tôn dạy rằng: “luân hồi phiền não cũng bởi sáu căn, mà giải thoát cũng sáu căn”. Ngoài sáu căn ra thì tuyệt nhiên không có gì là luân hồi phiền não cũng không có gì giải thoát.

Đức Thế Tôn Như Lai đắc Vô Thượng Bồ Đề nên sáu căn viên thông, một Nhãn căn có năm tầng thì năm căn khác cũng như vậy. Đức Thế Tôn tùy theo pháp hội tùy theo căn cơ thính chúng bằngChánh đẳng Chánh Giác Nhãn quán sát Ngài biết căn cơ thính chúng trong Pháp hội nên dùngnhục nhãn nói Pháp để điều phục dùng thiên nhãn nói Pháp để điều phục hay dùng Huệ nhãn,Pháp nhãncho đến Vô Thượng Bồ Đề nhãn để nói Pháp. Hay dùng Nhục nhĩ, Thiên nhĩ, Huệ nhĩ,Pháp nhĩcho đến vô thượng bồ đề nhĩ và bốn căn tỉ, thiệt, thân, ý cũng như vậy, đều có năm tầng.

Vì Đại Bi Tâm bình đẳng không phân biệt đẳng cấp tất cả loài hữu tình, từ thành phần thấp nhất tận cùng đáy xã hội cho đến giai cấp cao sang quyền quý đứng trên đỉnh nhân gian. Bất cứ thành phần nào giai cấp nào có duyên đến với Ngài, thì tùy theo căn cơ mà Thế Tôn nói Pháp giúp họđược giải thoát ngay trong hoàn cảnh khốn cùng, hay dứt nghi ngờ, những gì họ từng học qua nhưng không nhận thức ý nghĩa một cách rõ ràng mù mờ trong lí luận. Luôn luôn như vậy bất kể ngày đêm sáng trưa chiều tối trong suốt 49 năm ngài thị hiệncho đến khi Ngài quán sát thấy rằng những giáo Pháp mà ngài chứng ngộ cùng trải nghiệm qua đã truyền lại hết cho nhân gian và cũng có những bậc đệ tử trí tuệ nhận lãnh Giáo Pháp để lưu truyền nên Ngài thị hiện Niết bàn.

Vì thế gian loài hữu tình mọi sự nhận biết phát sinh từ sáu căn làm cội gốc, nên Đức Như Lai cũng nương sáu căn mà nói Pháp. Tuy nhiên Thế Tôn là bậc Đại Giác Ngộ nên sự thấy biết mỗi căn có năm tầng, với những hữu tình sơ cơ học đạo thì mỗi tầng như vậy là nấc thang trời không dễ gì với tới. Thí dụ như thính chúng Pháp hội nghe Thế Tôn giảng Pháp trong giới hạn phạm vi nhục nhãn, nhục nhĩ hay tỉ… thì đã là một sự xa vời, chứ đừng nói chi tới huệ nhãnPháp nhãn, hay huệ nhĩ, Pháp nhĩ…

Với loài Ngườichư ThiênNhị ThừaBồ Tát, do sự mê mờ nhiều hay ít mà phân ra cấp độ như vậy.Tuy nhiên những cấp độ thì lấy biên độ nào, lấy giới hạn để phân chia ra. Đó là lấy Chân như làm tâm điểm, so sánh đối chiếu trình độ thâm nhập xa hay gần mà có sự sai biệt bốn cấp độ như trên.Đức Như Lai thị hiện chỉ cho chúng sanh con đường giải thoát nên Pháp ngài nói ra là tùy thuậntheo trình dộ căn cơ của thính chúng trong Pháp hội không lẫn lộn vì ngài có Tri căn Trí lựcKinh điển lưu truyền đến bây giờ chúng ta vẫn đinh ninh là từ Đức Như Lai nói ra, thật ra thì ngài không nói gì hết. Vậy Kinh từ Nguyên Thủy đến Đại Thừa không phải từ Đức Thế Tôn thuyết hay sao? Nếu Đức Như Lai có thuyết Pháp thì còn năng thuyết, sở thuyết thì làm sao đúng với hai chữ Như Lai. Những Kinh điển mà chúng ta có là do Hậu Đắc Trí đối cảnh sở duyên tâm Đại Bi vận hành mà phát ra âm thanhÂm thanh đó không thật không hư vì xuất phát từ Chân Như nên là vô tận.

Vì từ Chân Như từ vi tận nên những vị tu học hay học Kinh thì nhận ra sự huyền diệu đó, vì cũng một quyển Kinh hay một câu Kinh mà càng tu học thì mỗi lúc càng thấy biết rộng ra bay bổng, ý nghĩa càng thâm diệu, càng sâu xa hơn lên.

Có một bản tiểu luận giải thích về năm thời kỳ Đức Thế Tôn thuyết Pháp từ ban đầu Thành Đạongài thuyết Kinh Hoa Nghiêm cho đến khi sắp Niết Bàn ngài thuyết Kinh Đại Bát Niết Bàn. Thật raluận giải năm thời kỳ thuyết Pháp của Đức Như Lai không được thuyết phục lắm vì có những phần khập khiễng và mâu thuẫn so sánh với lịch sử truyền thừa.

Đức Thế Tôn Như Lai mỗi quan năng có năm tầng trí tuệ như mắt gồm có: 1. Nhục nhãn; 2. Thiên nhãn; 3. Huệ nhãn; 4. Pháp nhãn; 5. Vô thượng bồ đề nhãn. Y theo Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa năm quan năng còn lại cũng đều có năm tầng trí tuệ như vậy. Không phải Pháp có năm tầng, mà năm tầng đó là trình độ, là căn cơ loài hữu tình còn Đức Như Lai thì tùy thuận vì trình độcăn cơ loài hữu tình thấy sai biệt là như vậy. Tuy nhiên với Đức Như Lai thì: năm tức một, một tức năm, vì vậy tất cả Kinh điển đều có năm tầng trong đó, dù vậy điều quan trọng là có nhận ra Ẩn và Hiện hay không?

Ẩn, Hiện như thế nào? Khi Đức Thế Tôn trong Pháp hội mà trình độ căn cơ thính chúng chỉ là phàm phu bình thườngnhận thức mọi việc xung quanh bằng năm quan năng thô phù bên ngoài, sống theo phong tục tập quán và sự hiểu biết chỉ là lớp trước truyền lại lớp sau, chưa hề biết đến quan năng thứ sáu tức Ý thức hay là phân biệt thứcPháp hội mà thính chúng như vậy Đức Như Lai tùy thuận nói Pháp Thập Thiện… thiết lập căn bản đời sống cho chúng sanh.

Đức Thế Tôn luôn luôn dạy rằng: “Như sư tử dù bắt thỏ cũng tận lực” Pháp Thập Thiện gồm cóthân ba, miệng bốn, như vậy thì Thiên nhãnHuệ nhãnPháp nhãnVô thượng Bồ Đề nhãn, ở đâu trong Pháp Thập Thiện Như một viên ngọc đẹp đẽ không tì vết dù có ở trong bụi đất thì cũng không mất đi tính chất của nó. Đức Thế Tôn tùy thuận căn cơ chúng sanh mà thuyết Pháp Thập Thiện,tuy nhiên Pháp Thập Thiện đó là từ bậc Chánh đẳng Chánh giác nói ra. Đối với thế gian thì ngườihọc hành có rất khó nói chuyện vói người bình dân, người giàu khó nói chuyện với người nghèo, vua chúa quan quyền khó nói chuyện với người dưới mà chỉ ra lệnh mà thôi.

Pháp Thập Thiện mà Thế tôn thuyết không nằm trong hệ thống giáo lý nào lưu truyền từ trước, không học từ vị đạo sư nào, không theo một trình tự tín ngưỡng thần quyền  nào, không cầu khẩnvan xin vào đấng thần linh nào, mà tất cả mười điều đều lấy tự thân mỗi người làm chính.

Vì viên mãn Hậu Đắc Trí chứng Vô Thượng Bồ Đề ở ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác bất động hiện thân trước Pháp hội nói Pháp Thập Thiện. Trong bốn trí thì Đại Viên Cảnh Trí chiếu diệu như ánh sáng mặt trời chiếu soi không bỏ xót một vật nào. Bình đẳng tánh trí không phân biệt là cao, là thấp, Diệu Quan Sát Tríquán sát căn cơ Pháp hội thính chúng. Bằng Thành Tác Sở Trí thuyết lên Pháp Thập Thiện tương ưng trình độ chúng sanh. Với chúng sanh năm căn vì nương vào cái thân xương thịt nên gọi là “nhục căn” còn Đức Như Lai là Pháp thân nên là “Thành Sở Tác Trí”. PhápThập Thiện gốc từ đâu? Pháp Thập Thiện gốc từ hai chi đầu là Danh Tướng của năm tự tánh, thêm vào một phần nhỏ Phân biệt, còn Chánh trí và Như Như trong Pháp Thập Thiện như một bóng mờ. Không phải là không có Chánh Trí Như Như nhưng trình độ chúng sanh trong Pháp hội mà thấy nghe bằng nhục nhãn, nhục nhĩ… thì không làm sao nhận ra được, dụ như ban ngày bị bụi mù, mây mưa che lấp không thấy mặt trời, dù không thấy mặt trời nhưng sự sáng cũng do mặt trời mà có. Vì vậy Pháp Đức Như Lai nói ra dù trong thành phần nào cũng có đủ năm tầng tuy nhiên sự sai biệt là ẩn và hiện nên năm tức một, một tức năm.

Trong thời gian đó Pháp hội thính chúng mắt thấy tai nghe Đức Thế Tôn trên Pháp tòa giảng PhápThập Thiện thì cũng ngay thời gian đó vào một biên độ khác Chư Thiên cũng thấy Như Lai trênpháp tòa đang giảng Pháp sinh tử luân hồinhân quả, tức là Pháp mười hai nhân duyên từ vô minhđến lão tử. Cùng một thời gian nhưng hai biên độ khác nhau nên không thấy nhau vì nhục nhãn vàthiên nhãn không cùng cấp độ.

Cũng ngay thời gian đó ở một biên độ khác nữa thì chư vị Nhị Thừa Thanh Văn Duyên giác cũng đang thấy nghe Đức Thế Tôn trên Pháp tòa thân tướng ứng hợp với niềm tin của chư vị Thanh văn,Duyên giác, thuyết Tứ Thánh ĐếBát Chánh ĐạoThập Nhị Nhân DuyênVô NgãLục Ba La Mật… Bằng Huệ nhãn với chư vị Nhị thừa Đức Như Lai thuyết sự nhiễm tịnh các Pháp, sự sinh thành hoại diệt, sự khổ lạc các Pháp, và sự xuất ly Pháp khổ, và sau cùng là chứng Niết Bàn theo nguyện vọng ước muốn của chư vị nhị thừa.

Các vị Nhị Thừa đến với Thế Tôn toàn là người Bà-la-môn giáo, vì trước khi Thế Tôn thị hiện thì chưa có đạo giải thoát, vì để giải trừ sự chấp thủ sâu dày giáo lý Bà-la-môn, nên Thế Tôn phương tiện dùng hai trong ba tự tánh để thuyết Pháp, ba tự tánh đó là:

Một là Biên kế sở chấp tánh, hai là Y tha khởi tánh, ba là Viên thành thật tánh, Biên kế sở chấp là chư vị Bà-la-môn khi đến với Đức Thế Tôn thì giáo lí Vệ-đà vẫn còn nguyên trong tư tưởng của họ,vì vậy mới có mười câu hỏi siêu hình do tưởng thức đặt ra. Tuy có câu hỏi mà tuyệt nhiên không có câu trả lời, dù là từ ông tổ đầu tiên của trường phái Vệ-đà cho đến thời Đức Thế Tôn thị hiện, hơn nữa còn có vị dọa rằng sẽ bỏ đoàn thể Chư Tăng mà đi nếu Đức Thế Tôn không trả lời thỏa mãncâu hỏi của ông ta, hay đến nỗi chư vị đó còn yêu cầu rằng nếu Đức Thế Tôn biết thì trả lời biết, còn không biết thì nói là không biết.

Trong năm tự tánh “thức” là một là danh hai là tướng ba là phân biệt, bốn là chánh trí, năm là Như NhưBan sơ các vị Bà-la-môn đến với Đức Thế Tôn dù rằng nhận ra giáo lí Vệ-đà có cái gì đó không trung thực không đưa đến giải thoát thật sự theo mong cầu của họ. Để giải trừ chấp thủ“Danh”, “Tướng” thường hằng trong giáo lí Vệ-đà Đức Thế Tôn dùng tự tánh thứ ba là “Phân biệt” chỉ cho các vị đó rằng: Danh, Tướng mà các vị Bà-la-môn chấp thường hằng đó là “Biên kế sở chấp”. Vì sao? Vì là Nhị Nguyên vì  nó sinh-diệt bị chi phối.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23111)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34678)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32253)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30473)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30745)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21066)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20221)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19485)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24428)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30747)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15712)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27841)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19795)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15594)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23296)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23616)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17560)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15737)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21951)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 38072)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22229)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23298)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21407)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28456)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32608)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25234)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34734)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 23003)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27754)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31353)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13631)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25261)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27893)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22143)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20767)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22234)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27203)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24189)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21968)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14755)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23218)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24068)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21179)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14230)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19977)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22569)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14099)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28084)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22899)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28262)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 11034)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28547)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31630)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26240)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 15012)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28064)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7486)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25425)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20735)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21166)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant