Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thể Tánh Của Tâm

11 Tháng Chín 201807:36(Xem: 5364)
Thể Tánh Của Tâm

THỂ TÁNH CỦA TÂM 

Nguyễn Thế Đăng

Thể Tánh Của Tâm


Đoạn kinh tiếp theo của Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói về thể tánh của tâm. Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biếtchứng ngộ pháp giới thể tánh.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất,pháp giới ấy có phải trước kia bị trói buộc mà nayđược giải thoát chăng?

Ngài Xá-lợi-phất nói: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, pháp giới ấy chẳng phải trước bị trói buộc mà nay được giải thoát…

Ngài Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất, có phải là ngài dứt hết phiền não mà được tâm vô lậugiải thoát chăng?

Ngài Xá-lợi-phất nói: Tôi được tâm vô lậu giải thoát.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất, ngài dùng những tâm nào để được giải thoát? Là tâm quá khứ, tâm vị lai hay tâm hiện tại? Thưa Đại đức, tâm quá khứ đã diệt, tâm vị lai chưa đến, tâm hiện tại chẳng an trụ, thì dùng tâm nào để được giải thoát?

Ngài Xá-lợi-phất nói: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Chẳng phải tâm quá khứ được giải thoát, chẳng phải tâm hiện tại được giải thoát, chẳng phải tâm vị lai được giải thoát.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức, vậy sao ngài lại nói tâm được giải thoát? Ngài Xá-lợi-phất nói: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, ở nơi thế đế mà nói là tâm được giải thoát. Trong đệ nhất nghĩa đếđều không có tâm bị trói buộc hay tâm giải thoát.

 Ngài Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức, có phải ngài muốn cho pháp giới thể tánh có thế đế và đệ nhất nghĩa đế chăng?

Ngài Xá-lợi-phất nói: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, pháp giới thể tánh không có thế đế và đệ nhất nghĩa đế”.

Đây là cuộc đối thoại giữa hai vị đã giải thoát – tâm giải thoát và tuệ giải thoát – cốt để cho đại chúng nghe. Như ở đoạn đối thoại trước có năm trăm Tỳ-kheo được tâm vô lậu; còn ở đoạn này, khi đoạn đối thoại chấm dứt, có hai trăm Tỳkheo “bỏ chúng mà đi”.

“Pháp giới ấy chẳng phải trước bị trói buộc mà nay được giải thoát”: Pháp giới chưa hề bị trói buộcnên cũng không có việc giải thoát. Tại sao thế? Như đoạn trước, kinh nói: “Pháp giới chính là pháp giới thể tánh”. Pháp giới không hề có nhiễm ô: “Chính nhiễm ô là pháp giới thể tánh”.

Pháp giới vốn thanh tịnh vì là tánh Không: “Vì nghĩa ấy nên Như Lai nói: Tỳ-kheo hiểu các pháp bình đẳng giống như hư không. Như đụng chạm hư không thì không có chỗ đụng chạm, pháp của Sa-môn cũng như vậy”.

Tất cả các pháp vốn thanh tịnh, vốn không nhiễm ô, vì các pháp là tánh Không, các pháp khôngsanh không diệt: “Ngài Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát sơ phát tâm tu hành Không, Vô tướng vàVô táchiểu biết tất cả pháp không sanh không diệt, thì gọi là Bồ-tát sơ phát tâm vậy”. Chính vìpháp giới là pháp giới thể tánh, là tánh Không, nên pháp giới không có trói buộc và giải thoát.

Nhưng nếu pháp giới không có trói buộc không có giải thoát thì tại sao chúng ta thấy có trói buộc? Đó là vì tâm chúng ta có nhiễm ô vậy. Thế nên tiếp đó hai vị bàn về tâm, tâm nào có nhiễm ô, cótrói buộc; tâm nào là vô lậu (không có nhiễm ô), giải thoát.

Thiền quán về tâm, thì thấy tâm quá khứ đã diệt, tâm vị lai chưa đến, và tâm hiện tại chẳng an trụ, nghĩa là tìm tâm thì không thấy cái gì là tâm cả. Không có tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai. Nghĩa là cái chúng ta gọi là tâm, dù là tâm nào, đều là tánh Không. Thế nên chẳng có tâm nào giải thoát cả, cho nên ngài Xálợi-phất nói, “Chẳng phải tâm quá khứ được giải thoát, chẳng phải tâm vị lai được giải thoát, chẳng phải tâm hiện tại được giải thoát”. Tất cả mọi tâm là tánh Không, cho nên không có tâm nào bị nhiễm ôtrói buộc; cũng không có tâm nào vô lậu giải thoát. Kết luận đoạn này, ngài Xálợi-phất nói, “Pháp giới thể tánh không có thế đế và đệ nhất nghĩa đế”, nghĩa là trong pháp giới thể tánh, trong tánh Không, không có tâm trói buộc và tâm giải thoát, không có phiền não và vô lậu giải thoát, không có sanh tử nhiễm ô và Niếtbàn vô lậu.

Nói cách khác, trong pháp giới thể tánh chỉ có pháp giới thể tánhngoài ra không có cái gì khác. Trong tánh Không chỉ có tánh Khôngngoài ra không có cái gì khác.

Khi ngài Văn-thù-sư ợi nói, “Tâm không có trong ngoài và ở giữa nên không có trói buộc và giải thoát”, thì hai trăm Tỳ-kheo rời chỗ ngồi bỏ đi, vì “nếu không có tâm giải thoát, thì chúng tôi lại xuất gia tu hành để làm gì?”.

Sau đó ngài Văn-thù-sư-lợi biến hóa ra một Tỳ-kheo, đón đường nhóm Tỳ-kheo bỏ đi ấy để giảng tiếp cho họ.

“Ngài Văn-thù-sư-lợi nói: Nay chúng ta cùng nhau suy luận. Tâm của các Đại đức là tướng dạng gì? Là màu xanh vàng đỏ trắng hay màu tím pha lê? Là thật hay chẳng thật? Là thường hay vô thường? Là sắc hay chẳng phải sắc?

Nhóm Tỳ-kheo nói: Thưa Đại đức, tâm chẳng phải sắc, chẳng thấy được, không có hình bóng, cũng không có xúc đối, không nơi chỗ, không hiển thị. …

Hóa Tỳ-kheo nói: Thưa các Đại đức, tâm các ngài đã không hình sắc, không có xúc đối, không nơi chỗ, không hiển thị, chẳng phải trong ngoài ở giữa, thì nó có thật thành tựu chăng?

Nhóm Tỳ-kheo ấy nói: Không phải vậy.

Hóa Tỳ-kheo nói: Thưa các Đại đức, vì nghĩa ấy nên ngài Văn-thù-sư-lợi nói pháp giới thể tánhkhông có nhiễm tịnh. Thưa các Đại đức, vì các ngài là phàm phu điên đảo chấp ngã và ngã sở,phát khởi tâm đi vào các cảnh giới mà sanh khởi tâm phan duyên. Đó là tất cả những pháp phan duyên sanh diệt, chẳng trụ, biến đổi mà Diệt đế có thể dứt diệt.

Nếu tâm duyên nơi việc xuất giathọ giới cụ túctu đạo đắc quả, thì thể tánh của tâm ấy rỗng không chẳng có thật, chỉ từ vọng tưởng phát khởi. Đã là vọng tưởng chẳng thật thì chẳng sanh chẳng trụ chẳng diệt. Nếu đã là chẳng sanh trụ diệt thì không có trói buộc cũng không có giải thoát, không hướng quả không chứng quả.

Vì nghĩa ấy nên Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói pháp giới thể tánh không nhiễm không tịnh, cũng không hướng không chứng, không có giải thoát.

Nghe Hóa Tỳ-kheo giảng giải, nhóm Tỳ-kheo ấy được vô lậu giải thoát”.

Quán chiếu vào tâm, thì thấy tâm không hình sắc, không có xúc đối, không nơi chỗ, không hiển thị, chẳng phải trong ngoài ở giữa, không thật thành tựu, thì tâm là không có tự tánh, là vô tự tánh, làtánh Không. Nếu tâm ấy không thể tìm thấy ở đâu cả, không thật thành tựu, thì tâm ấy là vô tự tánh, là tánh Không, và là tánh Không cho nên vốn giải thoát. Như hoa đốm giữa không trung,không thật thành tựu cho nên vốn giải thoát. Vốn giải thoát vì chưa từng có. Thế nên ngài Văn-thù-sưlợi nói pháp giới thể tánh không có nhiễm tịnh, không có tâm đã nhiễm ô và tâm được giải thoátkhỏi nhiễm ô. Như hoa đốm giữa hư không chưa từng có thì lấy đâu có sự việc giải thoát cho haykhỏi hoa đốm.

Chỉ vì chúng sanh chúng ta vô cớ vọng tưởng ra ngã và ngã sở, chủ thể và đối tượng đã sanh thì có tâm phan duyên bám chấp theo cảnh và tâm mà chạy theo sanh tử. Nếu theo đuổiquán sátđến tận nguồn gốc của tâm này thì thấy nó “rỗng không chẳng có thật, chẳng sanh chẳng trụ, chẳng dị chẳng diệt”. Tâm là rỗng không, không thật không sanh không diệt, là tánh Không, thì có cái gì trói buộc để phải giải thoát, có cái gì để hướng quả và chứng quả.

Tóm lại, khi nhìn thấy tận thể tánh của tâm, không chỉ bằng ý thức, mà bằng thiền định và thiền quán để hiểu biết rằng tâm không thật thành tựu, tâm chưa từng sanh, trụ, diệt, tâm là tánh Không, người ta giải thoát.

Có câu chuyện Thiền nói lên việc nhìn thấy thể tánh của tâm, được ngộ đạo và giải thoát của Nhị tổ Huệ Khả như sau:

Sư Huệ Khả tìm đến Tổ Bồ-đề-đạt-ma để hỏi đạo, mong hết nghi để giải thoát. Sư đứng suốt đêmngoài trời tuyết, Tổ chẳng ngó ngàng gì đến. Sư chặt cánh tay để tỏ lòng thiết tha cầu đạo. Được phép hỏi, Sư nói:

 - Tâm con chưa an, xin thầy dạy phép an tâm.

Tổ nói:

-Ngươi đem tâm ra đây, ta an cho.

Sư im lặngtư duy quán chiếu hồi lâu, rồi nói:

 - Con tìm tâm mãi mà không thể được.

- Ta đã an tâm cho ngươi rồi đó.

Sư Huệ Khả nhân đây được khế ngộ, được ban cho pháp danh là Huệ Khả.

Sư ở với Tổ cho đến lúc Tổ quy tịch, rồi sau đó đi các nơi để hoằng truyền Chánh pháp.

Nguyễn THế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo số 304 1-9-2018

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7678)
Tỳ-bà-thi Phật là danh hiệu phiên âm từ Pāli ngữ Vipassī, Sanskrit: Vipaśyin; có nghĩa là cái nhìn đặc biệt, cái nhìn sâu sắc và thanh tịnh; cách nhìn này xuyên suốt thấu đáo mọi vấn đề.
(Xem: 22451)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 8895)
Trong lịch sử tôn giáo của nhân loại rất hiếm có bậc lãnh đạo tinh thần - qua lời nói, hành động và khả năng thiện xảo - làm tăng động lực và tạo một chuyển hướng mới cho tôn giáo, Đức Phật là một khuôn mặt hiếm hoi trong các bậc này.
(Xem: 10116)
Cho đến nay, người ta vẫn chưa biết chính xác bản kinh Pháp Hoa này được thiết lập khi nào, ở đâu và được ghi lại bằng ngôn ngữ nào trước hết.
(Xem: 16802)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 8278)
Việc nghiên cứu Kinh Lăng-già, đã được ngài D.T.Suzuki thực hiện, qua tác phẩm “rất thẩm quyền”: Studies in the Lankavatara Sutra – nghiên cứu về kinh Lăng-già.
(Xem: 19085)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 7998)
Chính pháp trụ một nghìn năm, tượng pháp trụ một nghìn năm, mạt pháp trụ một vạn năm. Thuyết này trích trong Kì-hoàn tinh xá bi.
(Xem: 6943)
Nhị đếtục đếchân đế, còn gọi là chân lý tương đốichân lý tuyệt đối hay chân lý thế gianchân lý xuất thế gian.
(Xem: 8219)
Phật giáocách sống dựa trên việc rèn luyện tâm. Mục đích cao nhất là để đi trên con đường giải thoát khỏi đau khổ, và đạt đến Niết Bàn,
(Xem: 8570)
Trong 2 giai tầng của việc phát triển tâm giác ngộ nguyện vọng và dấn thân, chỉ với việc dấn thân chúng ta mới thọ giới Bồ tát.
(Xem: 9666)
Trích từ quyển How to See Yourself as You Really Are của Đức Đạt Lai Lạt Ma - Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 9540)
Thực chứng giáo lý duyên khởi, người thông tuệ hoàn toàn không vướng vào những quan điểm cực đoan...
(Xem: 7722)
Công cuộc hiện đại hóa giáo dục đại họcTrung Quốc bắt đầu từ việc chính phủ Mãn Thanh xây dựng “Kinh Sư Đại Học Đường” năm 1910 chiêu sinh sinh viên chính quy đầu tiên.
(Xem: 8298)
Đức Phật nói, nếu giữ tâm vững như hòn đảo trước phong ba bão táp của cuộc đời thì chúng ta sẽ có được chất liệu an vui, an vui về thái độ, tinh thần...
(Xem: 8296)
Phật dạy thân người do tứ đại gồm bốn chất đất-nước-gió-lửa hòa hợp lại hình thành; đất với gió lại không thuận với nhau, gió thổi mạnh thì đất rung rinh..
(Xem: 7944)
Phật dạy trong mỗi người chúng ta đều có phần tâm linh sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết không lầm lẫn, sự vật như thế nào thì biết rõ như thế đó;
(Xem: 8433)
Thực tại nền tảng của thế giới Hoa Nghiêm là Phật Tỳ-lô-giá-na (Vairocana). Đây là Pháp thân của Đức Phật Thích-ca và cũng là Pháp thân của tất cả chư Phật.
(Xem: 9964)
Dựa trên giả định các hoạt động của Tâm tạo ra những cấu trúc não bộ mới (Hebb 1949) cho biết ý tưởng, tình cảm có thể để lại dấu ấn
(Xem: 8981)
Là giai đoạn duy nhất trong kinh nghiệm cận tử liên quan đến việc nhận thức thế giới mang tính vật lý hơn là tính tâm linh...GIDEON LITCHFIELD
(Xem: 8766)
Khi Mâu Tử, một tri thức Tàu, tị nạn tại Giao Châu và viết trong Lý Hoặc Luận vào cuối thế kỷ thứ 2 sau tây lịch rằng, “Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất,”
(Xem: 8030)
Nếu quý vị không có tuệ giác trong cung cách chính mình và mọi thứ thật sự là, quý vị không thể nhận ra và xa lánh những chướng ngại...
(Xem: 9926)
Tâm ta là vật quan trọng nhất. Mọi sự đến từ tâm, vì thế tất cả những gì không ai ưa thích mà giờ đây ta đối mặt cũng đến từ tâm.
(Xem: 9846)
Những giác quan của chúng ta góp phần cho sự si mê của chúng ta. Đối với những tính năng của chúng ta về thấy, nghe, ngửi, nếm, và cảm giác, những đối tượng dường như tồn tại trong tự bản chất của nó.
(Xem: 9361)
Chết là một bộ phận trong sự sống của chúng ta. Dĩ nhiên, theo quan điểm của Phật Giáo, thân thể này trong một ý nghĩa nào đó là một kẻ thù.
(Xem: 10245)
Bất cứ ai quan tâm đến lịch sử Đức Phật đều muốn biết về bữa ăn cuối cùng của Ngài do ông Thuần Đà (Cunda) cúng dường,
(Xem: 14551)
Là vị Bồ Tát tiêu biểu cho Trí Tuệ, Bồ Tát Văn Thù thường được miêu tả với dáng dấp trẻ trung ngồi kiết già trên một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen.
(Xem: 9119)
Đức Phật là một bậc đạo sư thực tiễn. Mục tiêu duy nhất của Ngài là giải thích tất cả chi tiết trong vấn đề của khổ là thực tế phổ biến của cuộc đời.
(Xem: 8606)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 9757)
Khi mới thành đạo, đức Phật đã nói: “Lạ thay tất cả chúng sanh đều có đức tính trí huệ của Như Lai mà bị vô minh che lấp nên không phát hiện ra được”.
(Xem: 15740)
Ở đời tuổi tác là một nhân tố quan trọng tác thành nên vị trí của cá nhân trong cộng đồng. Trong đạo cũng vậy, những bậc truởng lão, thâm niên lại càng được kính nể và tôn trọng hơn.
(Xem: 8191)
Bảy yếu tố khiến Tăng đoàn hưng thịnh hay còn gọi là bảy pháp bất thối được đề cập trong bài kinh Đại bát Niết bàn, gồm: Có Tín tâm, có Tàm, có Quý, Đa văn, Tinh tấn, Chánh niệmTrí tuệ.
(Xem: 11120)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh.
(Xem: 11788)
Đạo đức học là một bộ phận của triết học nhằm dựa vào lý tríthiết lập một sự phân biệt giữa thiện và ác, giữa điều được làm và điều bị cấm làm.
(Xem: 8857)
Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.
(Xem: 9086)
Điều cần bảo vệ chính là cái tâm của người con Phật, biết kiên trì thực hành những lời Phật dạy để đem lại an lạc cho chính mình và những người chung quanh
(Xem: 12008)
Chữ “giác ngộ” trong Đạo Phật, tiếng Pali và Sanskrit đều là “Bodhi”. Tiếng Anh là “enlightenment” hay “awakening”
(Xem: 9421)
Chúng tôi đã thuyết giảng về những cảm xúc đau khổ và các tai hại mà chúng sẽ gây ra cho việc hành trì tu tập của chúng ta.
(Xem: 21734)
Chúng ta đã biết đời là vô thường đau khổ, nhưng chúng ta còn cố chấp cái ngã, cái ta, cố bám víu vào cái của ta, thì chúng ta không thể trừ bỏ được kiêu mạn,
(Xem: 15295)
Người Phật tử có trí và hiểu đạo chỉ quan tâm khiến cho mỗi đời sống là một bước tiến trên con đường tiến bộ tâm linh không ngừng, dẫn tới sự giải thoátgiác ngộ tối hậu...
(Xem: 8676)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộVãng sanh khác nhau thế nào?
(Xem: 9372)
Khi đã biết nghiệp báo nhân quả không thể tránh, khủng khiếp như thế, chúng ta phải cố gắng tránh làm ác từ ý nghĩ, lời nói đến việc làm
(Xem: 7816)
Khảo sát hiện tượng "hội nhập văn hóa" tại một trung tâm Phật giáovị trí quan trọng vào hàng nhất nhì ở thời Lý-Trần như chùa Quỳnh Lâm...
(Xem: 9401)
Ta-bà là chu kỳ của sự hiện hữu (sự sinh, sự sống và cái chết) chi phối bởi nghiệp (karma). Đấy là chiếc bánh xe của khổ đau hình thành từ các hiện tượng của sự hiện hữu
(Xem: 9455)
Chúng ta sợ đủ thứ: sợ chết, sợ khốn khổ, sợ bị chê bai chỉ trích, và trên tất cả, hình như chúng ta rất sợ sự thật.
(Xem: 10424)
Con người sanh ra trên cõi đời này đã mang theo nghiệp nhân của đời trước, lúc lớn lên lại gây tạo thêm nghiệp mới.
(Xem: 8874)
Tất cả việc làm của Phật giáo đều tập chú vào lợi ích cho chúng sanh. Chúng sanh là đối tượng duy nhất của Phật giáo.
(Xem: 14886)
Mặc dù các tôn giáo nhất là Phật giáo đều nhấn mạnh đến vấn đề Nhân Quả - Nghiệp báo, song Luật Nhân quả không phải là của riêng một tôn giáo nào, nó là một luật của tự nhiên
(Xem: 8031)
“Sống Tỉnh Giác” là sống tỉnh chứ không còn ngủ mê nữa. Đây là đi vào thực hành chứ không phải là học, hiểu hay lý luận suông.
(Xem: 8348)
Sau khi trở thành phật tử, có tam qui, ngũ giới rồi, người phật tử phải sống ra sao để an lạc hạnh phúc?
(Xem: 8428)
Tất cả chúng ta đều có duyên lớn được gặp Phật pháp, được học Phật, được có người chỉ đường, có bản đồ sẵn hết rồi, chỉ còn một việc là bước đi để trở về.
(Xem: 8845)
‘Tâm’ là chữ thường xuyên xuất hiện với người Phật tử mỗi khi nói đến tu tập . Thật vậy, nào là ‘Tu tâm’ , ‘một niệm ở tâm ta’ , nào là ‘giữ tâm ý trong sạch ’ , ‘
(Xem: 9136)
Chánh Giáo (Tam Bồ Đề_ Sambhodhi) cùng Giải Thoátmục đích chung của Phật và các đệ tử Thanh Văn...
(Xem: 8651)
Cầu xin mà có hiệu qủa, chẳng có ai không cầu, cứ ngồi đó mà cầu nguyện là tự có tất cả, chẳng phải làm việc vất vả, cần gì phải học hành cực nhọc....
(Xem: 8215)
Phật Giáo Ấn ĐộTây Tạng phân loại và hệ thống hóa toàn bộ giáo huấn của Đức Phật thành ba chu kỳ khác nhau gọi là "ba vòng quay của bánh xe Đạo Pháp"
(Xem: 7754)
Con Đường Của Bụt là chủ đề của khoá tu An Cư Kiết Đông năm 2008 - 2009. Đây là con đường Bụt đã đi, và chúng ta đang đi theo sự hướng dẫn của Ngài.
(Xem: 9933)
con người, chúng ta có khuynh hướng bám víu vào đời sống của chính mình. Nhà Phật gọi đó là chấp thủ.
(Xem: 7943)
Con người luôn sống trong sợ hãi từ hiện tại cho đến vị lai, là do chính mình gây tạo nên bằng những hành động, lời nóiý nghĩ bất thiện
(Xem: 7882)
Kinh điển thường ví giận dữ như một cơn điên. Người điên cuồng không kiềm chế được ý thức nên hành vi, cử chỉ, việc làm gây thương tổn bản thân và người khác.
(Xem: 6978)
Trồng nhân thiện nhất định được quả thiện, tạo ác nghiệp nhất định chiêu quả khổ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant