Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

A-tì-đạt-ma Giới Thân Túc Luận

02 Tháng Mười Hai 201808:15(Xem: 6235)
A-tì-đạt-ma Giới Thân Túc Luận

A-TÌ-ĐẠT-MA GIỚI THÂN TÚC LUẬN
阿毘達磨界身足論
Tôn giả Thế Hữu tạo
尊者世友造
Tam tạng Pháp Sư Huyền Tráng dịch
三藏法師玄奘譯 


Dịch Việt & chú:
 Phước Nguyên
ẤN BẢN ĐIỆN TỬ: 17/11/2018

blank


PHẨM BẢN SỰ

Tụng tóm tắt:

Ba địa mỗi địa mười,

Năm phiền não, năm kiến,

Năm xúc, năm căn, pháp,

Sáu: sáu thân tương ưng.

[0614b12] Có mười đại địa pháp, mười đại phiền não địa pháp, mười tiểu phiền não địa pháp, năm phiền não, năm kiến, năm xúc, năm căn, năm pháp, sáu thức thân, sáu xúc thân, sáu thọ thân, sáu tưởng thân, sáu ái thân.

Thế nào là Mười đại địa pháp?

1. Thắng giải; 2. Niệm; 3. Tư; 4. Xúc; 5. Tác ý; 6. Dục; 7. Thắng giải; 8. Niệm; 9. Tam-ma-địa; 10. Tuệ.

Thế nào là mười đại phiền não đại pháp?

1. Bất tín; 2. Giải đãi; 3. Thất niệm; 4. Tâm loạn; 5. Vô minh; 6. Bất chánh tri; 7. Phi lí tác ý; 8. Tà thắng giải; 9. Trạo cử; 10. Phóng dật.

Những gì là mười tiểu phiền não địa pháp?

1. Phẫn; 2. Hận; 3. Phú; 4. Não; 5. Tật; 6. Xan; 7. Cuống; 8. Xiểm; 9. Kiêu; 10. Hại.

Thế nào là năm phiền não?

1. Dục tham; 2. Sắc tham; 3. Vô sắc tham; 4. Sân; 5. Nghi.

Thế nào là năm kiến?

1. Hữu thân kiến; 2. Biên chấp kiến; 3. Tà kiến; 4. Kiến thủ 5. Giới cấm thủ.

Thế nào là năm xúc?

1. Hữu đối xúc, 2. Tăng ngữ xúc, 3. Minh xúc, 4. Vô minh xúc, 5. Phi minh phi vô minh xúc.

Thế nào là năm căn?

1. Lạc căn; 2. Khổ căn; 3. Hỉ căn; 4. Ưu căn; 5. Xả căn.

Thế nào là năm pháp?

1. Tầm; 2. Tứ; 3. Thức; 4. Vô tàm; 5. Vô quý.

Thế nào là sáu thức thân?

1. Nhãn thức; 2. Nhĩ thức; 3. Tị thức; 4. Thiệt thức; 5. Thân thức.

Thế nào là sáu xúc thân?

1. Nhãn xúc; 2. Nhĩ xúc; 3. Tị xúc; 4. Thiệt xúc; 5. Thân xúc; 6. Ý xúc.

Thế nào là sáu Thọ thân?

1. Thọ được sinh bởi nhãn xúc; 2. Thọ được sinh bởi nhĩ xúc; 3. Thọ được sinh bởi tỷ xúc; 4. Thọ được sinh bởi thiệt xúc; 5. Thọ được sinh bởi thân xúc; 6. Thọ được sinh bởi ý xúc.

Thế nào là sáu Tưởng thân?

1. Tưởng được sinh bởi nhãn xúc; 2. Tưởng được sinh bởi nhĩ xúc; 3. Tưởng được sinh bởi tỷ xúc; 4. Tưởng được sinh bởi thiệt xúc; 5. Tưởng được sinh bởi thân xúc; 6. Tưởng được sinh bởi ý xúc.

Thế nào là sáu tư thân?

1. Tư được sinh bởi nhãn xúc; 2. Tư được sinh bởi nhĩ xúc; 3. Tư được sinh bởi tỷ xúc; 4. Tư được sinh bởi thiệt xúc; 5. Tư được sinh bởi thân xúc; 6. Tư được sinh bởi ý xúc.

Thế nào là ái thân?

1. Ái được sinh bởi nhãn xúc; 2. Ái được sinh bởi nhĩ xúc; 3. Ái được sinh bởi tỷ xúc; 4. Ái được sinh bởi thiệt xúc; 5. Ái được sinh bởi thân xúc; 6. Ái được sinh bởi ý xúc.

Thế nào là Thọ?

Những gì là cảm thọ, cảm thọ quân bình, cảm thọ cá biệt, đã thọ, đang thọ, được liệt vào cảm thọ, đó gọi là Thọ.

Thế nào là Tưởng?

Những gì là tưởng, đẳng tưởng, hiện tưởng, đã tưởng, sẽ tưởng, đó gọi là Tưởng.

Thế nào là Tư?

Những gì là nghiệp được tạo bởi tâm ý sau khi đã tư, sẽ tư, hiện tiền tư, các tư và đẳng tư, được liệt vào tư, đó gọi là Tư.

Thế nào là xúc?

Nghĩa là xúc, đẳng xúc, hiện xúc, đã xúc, sẽ xúc, đó gọi là Xúc.

Thế nào là Tác ý?

Dẫn khởi tâm, tùy thuận dẫn khởi, hoàn toàn tùy thuận dẫn khởi, hiện tác ý, đã tác ý, sẽ tác ý, khiến tâm thiên hướng, đó gọi là Tác ý.

Thế nào là Dục?

Những gì là dục, trạng thái của dục, trạng thái của dục hiện tiền, trạng thái hỷ lạc, trạng thái thú hướng, trạng thái hy vọng mong cầu, trạng thái hân hoan mong cầu, trạng thái được tác thành bởi dục hữu, đó gọi là dục.

Thế nào là Thắng giải?

Trạng thái thắng giải của tâm, đã thắng giải, sẽ thắng giải, đó gọi là Thắng giải.

Thế nào là Niệm?

Những gì là niệm, tùy niệm, biệt niệm, ức niệm, trạng thái ức niệm, trạng thái không quên mất, không mất trạng thái của pháp, không quên trạng thái của pháp, trạng thái ghi nhớ sáng suốt của tâm đó gọi là Niệm.

Thế nào là Tam-ma-địa?

Nghĩa là tâm trụ, bình đẳng trụ, hiện tiền an trụ, tiếp cận an trụ, không loạn, không tán, nhiếp trì, tịch chỉ, đẳng trì, trạng thái tâm và cảnh hiệp nhất, đó gọi là Tam-tam-địa.

Thế nào là Tuệ?

Giản trạch đối với pháp, giản trạch cực kỳ, giản trạch cực kỳ nhất; hiểu rõ đặc tính của pháp, toàn bộ hiểu rõ, tiếp cận hiểu rõ, thông duệ, thông đạt, thẩm sát, quyết trạch, giác, minh, tuệ hành, tì-bát-xá-na, đó gọi là Tuệ.

Thế nào là Bất tín?

Không tin, trạng thái không tin, trạng thái không tin hiện tiền, không xác chứng, đã không uy tín, sẽ không uy tín, hiện không uy tín, khiến tâm không minh tịnh, đó gọi là Bất tín.

Thế nào là Giải đãi?

Trạng thái không tinh tấn, trạng thái tinh tấn yếu kém, trạng thái tinh tấn co rút, ngừng nghỉ tinh tấn, tâm không dũng mãnh, đã không dũng mãnh, sẽ không dũng mãnh, đó gọi là Giải đãi.

Thế nào là thất niệm?

Trạng thái không niệm, trạng thái trống niệm, trạng thái rơi mất niệm, trạng thái quên mất niệm, trạng thái không ghi nhớ rõ ràng của tâm, đó gọi là Thất niệm.

Thế nào là Tâm loạn?

Trạng thái phân tán của tâm, trạng thái loạn động của tâm, trạng thái dị niệm của tâm, trạng thái mê loạn của tâm, trạng thái tâm không hợp nhất với cảnh, trạng thái không an trụ trên một đối tượng, đó gọi là Tâm loạn.

Thế nào là Vô minh?

Vô trí đối với tam giới.

Thế nào là Bất chánh tri?

Tuệ được dẫn bởi phi lý.

Thế nào là Phi lý tác ý?

Tác ý nhiễm ô.

Thế nào là Tà thắng giải?

Tâm thắng giải tương ưng với tác ý nhiễm ô, tâm ấn thuận, đó gọi là Tà thắng giải.

Thế nào là Trạo cử? Tâm không tịch tĩnh, không tịch tĩnh cực kỳ, trạng thái không tịch tĩnh, tháo động, hoàn toàn tháo động, trạng thái tháo động của tâm, đó gọi là trạo cử.

Thế nào là Phóng dật?

Không thực hành kiên trì, không thực hành thường xuyên, không thân cận, không tu tập đối với việc đoạn bất thiện pháp, dẫn tập thiện pháp, đó gọi là phóng dật.

Thế nào là Phẫn?

Những gì thịnh nộ, hoàn toàn thịnh nộ, phổ biến thịnh nộ, cực kỳ thịnh nộ, đã thịnh nộ, sẽ thịnh nộ, đó gọi là Phẫn.

Thế nào là Hận?

Trạng thái kết hận của tâm, hoàn toàn kết hận, phổ biến kết hận, trạng thái oán kết của tâm, đó gọi là hận.

Thế nào là Phú?

Che dấu tội lỗi đã làm.

Thế nào là Não?

Trạng thái phẫn não của tâm, cố chấp, oán trách, trạng thái bướng bỉnh của tâm, đó gọi là não.

Thế nào là Tật?

Tâm không chấp nhận người khác được phồn thịnh.

Thế nào là Xan?

Tâm đắm trước không thí xả đối với tài sản, giáo pháp.

Thế nào là Cuống?

Dối gạt người khác.

Thế nào là Siểm?

Tâm cong vạy.

Thế nào là Kiêu?

Như có một hạng suy nghĩ như vậy:

“Ta có đủ sắc đẹp, tiền tài, địa vị, thế lực, đời sống thanh bạch, công đức, hình dáng trang nghiêm, mọi người nhìn thấy đều ưa thích”.

Do nhân duyên này, liền khởi lên kiêu ngạo, cực kỳ kiêu ngạo, cuồng loạn, hoàn toàn cuồng loạn, trơ trẽn, trạng thái sất láo ngạo ngược của tâm, đó gọi là kiêu.

Thế nào là Hại?

Thích đánh đập, làm các việc tổn não đối với hữu tình, đó gọi làm Hại.

Thế nào là dục tham?

Khởi tham đối với các dục, đẳng tham, chấp tàng, phòng hộ, ái lạc, dính chặt, đó gọi là dục tham.

Thế nào là sắc tham?

Khởi tham đối với các sắc, đẳng tham, chấp tàng, phòng hộ, ái lạc, dính chặt, đó gọi là sắc tham.

Thế nào là Vô sắc tham?

Khởi tham đối với vô sắc, đẳng tham, chấp tàng, phòng hộ, ái lạc, dính chặt, đó gọi là Vô sắc tham.

Thế nào là Sân?

Ý muốn gây tổn hại hữu tình; ghim chặt trong lòng, cực kỳ sân nhuế, phổ biến sân nhuế, hoàn toàn sân nhuế, sân, cực kỳ sân, ý phẫn nhuế, hiện sân nhuế, đã sân nhuế, sẽ sân nhuế, gọi chung là sân.

Thế nào là Nghi?

Do dự đối với các đế.

Thế nào là Hữu thân kiến?

Tùy quán đối với năm thủ uẩn, chấp là Ta hoặc sở hữu của Ta, do đây khởi lên, nhẫn, tuệ, quán, kiến, đó gọi là hữu thân kiến.

Thế nào là Biên chấp kiến?

Tùy quán đối với năm thủ uẩn, chấp đoạn hoặc chấp thường, do đây khởi lên, nhẫn, tuệ, quán, kiến, đó gọi là Biên chấp kiến.

Thế nào là Tà kiến?

Phỉ báng nhân, phỉ báng quả, hoặc phỉ báng tác dụng, hoặc hủy hoại cơ sở thật tế, do đây khởi lên, nhẫn, tuệ, quán, kiến, đó gọi là Tà kiến.

Thế nào là Kiến thủ?

Tùy quán đối với năm thủ uẩn, chấp là tối, là thắng, là diệu, là đệ nhất, do đây khởi lên, nhẫn, tuệ, quán, kiến, đó gọi là Kiến thủ.

Thế nào là Giới cấm thủ?

Tùy quán đối với năm thủ uẩn, chấp là thanh tịnh, là giải thoát, là xuất li, do đây khởi lên, nhẫn, tuệ, quán, kiến, đó gọi là Giới cấm thủ.

Thế nào là Hữu đối xúc?

Xúc tương ưng với năm thức.

Thế nào là Tăng ngữ xúc?

Xúc tương ưng với Ý thức.

Thế nào là Minh xúc?

Xúc vô lậu.

Thế nào là Vô minh xúc?

Xúc nhiễm ô.

Thế nào là Phi minh phi vô minh xúc?

Xúc không nhiễm hữu lậu.

Thế nào là Lạc căn?

Lạc thuộc thân và lạc thuộc tâm được sinh khởi bởi xúc thuận dẫn lạc, là cảm thọ quân bình, được liệt vào trong cảm thọ, gọi là lạc căn.

Thế nào là Khổ căn?

Khổ thuộc thân được sinh từ xúc thuận dẫn khổ, là cảm thọ không quân bình, được liệt vào trong cảm thọ, gọi là khổ căn.

Thế nào là Hỉ căn?

Hỷ thuộc tâm được sinh từ xúc thuận dẫn hỷ, là cảm thọ quân bình, được liệt vào trong cảm thọ, như thế gọi là hỷ căn.

Thế nào là Ưu căn?

Ưu thuộc tâm được sinh từ xúc thuận dẫn ưu, là cảm thọ quân bình, được liệt vào trong cảm thọ, như thế gọi là ưu căn.

Thế nào là Xả căn?

Xả thuộc thân và xả thuộc tâm được sinh từ xúc thuận dẫn không khổ không lạc, là cảm thọ không quân bình không bất quân bình, được liệt vào trong cảm thọ, gọi là xả căn.

Thế nào là Tầm?

Tâm tầm cầu, tầm cầu hoàn toàn, tiếp cận tầm cầu; tâm hiện rõ, cực kỳ hiện rõ, hiện rõ ngay trước mặt, tầm cầu, tầm cầu phổ khắp, suy đoán, suy đoán phổ khắp, mô phỏng, hoàn toàn mô phỏng, cấu trúc, bình đẳng cấu trúc, trạng thái bình đẳng cấu trúc, đều gọi là tầm.

Thế nào là Tứ?

Tâm nghiệm xét, nghiệm xét hoàn toàn, tùy thuận nghiệm xét hoàn toàn, tùy chuyển, tùy lưu, tùy thuộc trạng thái đó, đó gọi là Tứ.

Thế nào là Thức?

Sáu thức thân, từ nhãn thức, cho đến: ý thức.

Thế nào là Vô tàm?

Không tự trọng, không biết tự trọng, không ý thức tự trọng, không xấu hổ, không biết xấu hổ, không ý thức xấu hổ, không cung kính, không có trạng thái cung kính, không sùng trọng, không có trạng thái sùng trọng, không tỏ vẻ e sợ đối với người đáng sùng trọng, gọi chung là vô tàm.

Thế nào là Vô quý?

Không sợ, không biết sợ, không ý thức sợ; vô sỉ, không biết sỉ diện, không ý thức sỉ diện. Không ghê sợ các điều tội lỗi, không kinh khiếp điều xấu, không thấy khiếp sợ, gọi chung là vô quý.

Thế nào là Nhãn thức?

Do duyên đến mắt và các sắc, nhãn thức phát sinh. Trong đây mắt là tăng thượng, sắc là sở duyên, khi mắt nhận thức sắc, những gì là thông tri sắc, thông tri sắc cá biệt, đó gọi là Nhãn thức.

Thế nào là nhĩ, tị, thiệt, thân, ý thức?

Do duyên đến ý và pháp, ý thức phát sinh; ý là tăng thượng, pháp là sở duyên, khi ý nhận thức pháp, những gì là thông tri pháp, thông tri pháp cá biệt, đó gọi là Ý thức.

Thế nào là Nhãn xúc?

Do duyên đến mắt và các sắc, nhãn thức phát sinh, ba cái hòa hợp sinh xúc; trong đây, mắt là tăng thượng, sắc là sở duyên, khi mắt nhận thức sắc, những gì là hiện xúc, đã xúc, sẽ xúc, các xúc và đẳng xúc, đó gọi là Nhãn xúc.

Thế nào là nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân ý xúc?

Do duyên đến ý và pháp, ý thức phát sinh; ý là tăng thượng, pháp là sở duyên, khi ý nhận thức pháp, những gì là hiện xúc, đã xúc, sẽ xúc, các xúc và đẳng xúc, đó gọi là ý xúc.

Thế nào là Thọ được sinh bởi nhãn xúc?

Do duyên đến mắt và các sắc, nhãn thức phát sinh, ba cái hòa hợp sinh xúc. Xúc làm duyên, sinh thọ. Trong đây, mắt là tăng thượng, sắc là sở duyên, nhãn xúc là nhân, nhãn xúc là tập, nó là cái thuộc chủng loại của nhãn xúc; tương ưng với tác ý được sinh bởi nhãn xúc; khi mắt nhận thức sắc, những gì là cảm thọ, cảm thọ bình đẳng, cảm thọ bình đẳng cá biệt, được liệt vào cảm thọ, gọi là thọ được sinh bởi nhãn xúc.

Thế nào là Thọ được sinh bởi nhĩ, tị, thiệt, than, ý xúc?

Do duyên đến ý và các pháp, ý thức phát sinh, ba cái hòa hợp sinh xúc. Xúc làm duyên, sinh thọ. Trong đây, ý là tăng thượng, pháp là sở duyên, ý xúc là nhân, ý xúc là tập, nó là cái thuộc chủng loại của ý xúc; tương ưng với tác ý được sinh bởi ý xúc; khi ý nhận thức pháp, những gì là cảm thọ, cảm thọ bình đẳng, cảm thọ bình đẳng cá biệt, được liệt vào cảm thọ, gọi là thọ được sinh bởi ý xúc.

Thế nào là Tưởng được sinh bởi nhãn xúc?

Do duyên đến mắt và các sắc, nhãn thức phát sinh, ba cái hòa hợp sinh xúc. Xúc làm duyên, sinh tưởng. Trong đây, mắt là tăng thượng, sắc là sở duyên, nhãn xúc là nhân, nhãn xúc là tập, nó là cái thuộc chủng loại của nhãn xúc; tương ưng với tác ý được sinh bởi nhãn xúc; khi mắt nhận thức sắc, những gì là tưởng, tưởng bình đẳng, tưởng bình đẳng hiện tiền, đã tưởng, sẽ tưởng, gọi là tưởng được sinh bởi nhãn xúc.

Thế nào là Tưởng được sinh bởi nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc?

Do duyên đến ý và các pháp, ý thức phát sinh, ba cái hòa hợp sinh xúc. Xúc làm duyên, sinh tưởng. Trong đây, ý là tăng thượng, pháp là sở duyên, nhãn xúc là nhân, nhãn xúc là tập, nó là cái thuộc chủng loại của nhãn xúc; tương ưng với tác ý được sinh bởi nhãn xúc; khi ý nhận thức pháp, những gì là tưởng, tưởng bình đẳng, tưởng bình đẳng hiện tiền, đã tưởng, sẽ tưởng, gọi là tưởng được sinh bởi ý xúc.

Thế nào là Tư được sinh bởi nhãn xúc?

Do duyên đến mắt và các sắc, nhãn thức phát sinh, ba cái hòa hợp sinh xúc. Xúc làm duyên, sinh tư. Trong đây, mắt là tăng thượng, sắc là sở duyên, nhãn xúc là nhân, nhãn xúc là tập, nó là cái thuộc chủng loại của nhãn xúc; tương ưng với tác ý được sinh bởi nhãn xúc; khi mắt nhận thức sắc, những gì là nghiệp được tạo bởi tâm ý sau khi đã tư, sẽ tư, hiện tiền đẳng tư, cá biệt đẳng tư, được liệt vào tư, các tư và đẳng tư, gọi là tư được sinh bởi nhãn xúc.

Thế nào là Tư được sinh bởi nhĩ, tị, thiệt, thân, ý xúc?

Do duyên đến ý và các pháp, ý thức phát sinh, ba cái hòa hợp sinh xúc. Xúc làm duyên, sinh tư. Trong đây, ý là tăng thượng, pháp là sở duyên, nhãn xúc là nhân, nhãn xúc là tập, nó là cái thuộc chủng loại của ý xúc; tương ưng với tác ý được sinh bởi ý xúc; khi ý nhận thức pháp, những gì là nghiệp được tạo bởi tâm ý sau khi đã tư, sẽ tư, hiện tiền đẳng tư, cá biệt đẳng tư, được liệt vào tư, các tư và đẳng tư, gọi là tư được sinh bởi ý xúc.

Thế nào là Ái được sinh bởi nhãn xúc?

Do duyên đến mắt và các sắc, nhãn thức phát sinh, ba cái hòa hợp sinh xúc. Xúc làm duyên, sinh tư. Trong đây, mắt là tăng thượng, sắc là sở duyên, nhãn xúc là nhân, nhãn xúc là tập, nó là cái thuộc chủng loại của nhãn xúc; tương ưng với tác ý được sinh bởi nhãn xúc; khi mắt nhận thức sắc, những gì là tham, đẳng tham, chấp tàng, phòng hộ, yêu thích, dính chặt, đó gọi là Ái được sinh bởi nhãn xúc.

Thế nào là Ái được sinh bởi nhĩ, tị, thiệt, thân, ý xúc?

Do duyên đến ý và các pháp, ý thức phát sinh, ba cái hòa hợp sinh xúc. Xúc làm duyên, sinh ái. Trong đây, ý là tăng thượng, pháp là sở duyên, nhãn xúc là nhân, nhãn xúc là tập, nó là cái thuộc chủng loại của ý xúc; tương ưng với tác ý được sinh bởi ý xúc; khi ý nhận thức pháp, những gì là tham, đẳng tham, chấp tàng, phòng hộ, yêu thích, dính chặt, đó gọi là Ái được sinh bởi nhãn xúc, đó gọi là ái được sinh bởi ý xúc.

 

 


 

PHẨM PHÂN BIỆT

Tiết 1. Môn thứ nhất

Môn có tám mươi tám

Đầu ba môn dị loại,

Là thọ và thức thân,

Cùng vô tàm vô quý;

Tám mươi lăm môn khác,

Thọ, các thứ tuần tự,

Tương ưng, không tương ưng,

Một hành giới, xứ, uẩn.

[0616b05] Năm Thọ căn: lạc căn, khổ căn, hỉ căn, ưu căn, xả căn.

Thọ của đại địa pháp và năm thọ căn bao nhiêu tương ưng, bao nhiêu khhông tương ưng?

Cho đến Ái được sinh bởi ý xúc và năm Thọ căn, bao nhiêu tương ưng, bao nhiêu không tương ưng?

Thọ của đại địa pháp và năm Thọ căn không tương ưng: đều không tương ưng.

Tưởng của đại địa pháp và năm Thọ căn tất cả đều tương ưng, không phải không tương ưng: như Tưởng thế nào, thì tư, xúc, tác ý, dục, thắng giải, niệm, tam-ma-địa, Tuệ cũng như vậy.

Bất tín năm Thọ căn: năm căn tương ưng, năm căn không tương ưng, như Bất tín thế nào, thì các đại phiền não khác cũng như vậy.

Phẫn, Hận, Não, Tật, Hại: hai căn tương ưng là Ưu và Xả; năm căn không tương ưng.

Phú, Cuống, Siễm: ba căn tương ưng, trừ Lạc và Khổ; năm căn không tương ưng.

Kiêu: bốn căn tương ưng, trừ khổ; năm căn không tương ưng.

Xan: hai căn tương ưng là Hỉ và Xả; năm căn không tương ưng.

Dục tham và Sắc tham: ba căn tương ưng, trừ khổ và ưu; năm căn không tương ưng.

Vô sắc tham: chỉ một căn tương ưng đó là xả; năm căn không tương ưng.

Sân: ba căn tương ưng, trừ Lạc và Hỉ; năm căn không tương ưng.

Nghi: bốn căn tương ưng, trừ khổ; năm căn không tương ưng.

Tà kiến trong năm kiến: bốn căn tương ưng, trừ Khổ; Năm căn không tương ưng. Bốn kiến còn lại: Ba căn tương ưng, trừ Khổ và Ưu; năm căn tương ưng.

Hữu đối xúc: ba căn tương ưng, trừ Hỉ và Ưu; bốn căn không tương ưng, trừ khổ.

Tăng ngữ xúc: bốn căn tương ưng, trừ Khổ; ba căn không tương ưng trừ Hỉ và Ưu.

Minh xúc: ba căn tương ưng, trừ Khổ và Ưu; năm căn không tương ưng.

Vô minh xúc và Phi minh phi vô minh xúc: tương ưng với năm căn và cũng không tương ưng với cả năm căn.

Lạc căn không tương ưng: đều không tương ưng. Như Lạc căn thế nào, thì Khổ căn, Hỉ căn, Ưu căn, Xả căn cũng vậy.

Tầm và tứ: năm căn tương ưng, ba căn không tương ưng, trừ Khổ và Ưu.

Thức: năm căn tương ưng, không phải không không tương ưng.

Vô tàmVô quý: năm căn tương ưng, năm căn không tương ưng.

Nhãn thức: ba căn tương ưng, trừ Hỉ và Ưu; Năm căn không tương ưng. Như nhãn thức thế nào, thì nhĩ, tị, thiệt, thân thức cũng như vậy.

Ý thức: bốn căn tương ưng, trừ Khổ; ba căn không tương ưng, trừ Hỉ và Ưu.

Như sáu Thức thân thế nào, thì sáu Xúc thân, sáu Tưởng thân, sáu Tư thân cũng lại như vậy.

Thọ được sinh bởi nhãn xúc, năm Thọ căn không tương ưng: đều không tương ưng.

Như Thọ được sinh bởi nhãn xúc thế nào thì, các Thọ thân còn lại cũng đều như vậy.

Ái được sinh bởi nhãn xúc: hai căn tương ưng là Lạc và Xả; năm căn không tương ưng.

Như ái được sinh bởi nhãn xúc thế nào, thì ái được sinh bởi nhĩ, tị, thiệt, thân xúc cũng lại như vậy.

Ái do ý súc sanh: ba căn tương ưng, trừ Khổ và Ưu; năm căn không tương ưng.

Tiết 2. Môn thứ hai

[0616c08] Sáu thức thân: nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.

Thọ của đại đại pháp cùng sáu thức thân bao nhiêu tương ưng? bao nhiêu không tương ưng?

Cho đến Ái do ý xúc sanh và sáu thức thân, bao nhiêu tương ưng? bao nhiêu không tương ưng?

1. Sáu thức thân với đại địa pháp

Thọ của đại địa pháp và Sáu thức thân: tất cả đều tương ưng, không phải không không tương ưng.

Như Thọ của đại địa pháp, các đại địa pháp khác cũng vậy.

2. Sáu thức thân với mười đại phiền não pháp

Bất tín: sáu thức tương ưng, sáu thức không tương ưng.

Như Bất tín thế nào, thì các đại phiền não khác cũng vậy

3. Sáu thức thân với mười tiểu phiền não.

Phẫn: tương ưng với một thức là Ý; sáu thức không tương ưng.

Như Phẫn thế nào, thì các Tiểu phiền não địa pháp còn lại cũng như vậy.

4. Sáu thức thân với năm phiền não.

Dục tham: sáu thức tương ưng, sáu thức không tương ưng.

Như dục tham thế nào, thì sân cũng như vậy.

Sắc tham: bốn thức thân tương ưng, trừ mũi và lưỡi; sáu thức thân không tương ưng.

Vô sắc tham và Nghi: một thức tương ưng là Ý; sáu thức không tương ưng.

5. Sáu thức thân với năm kiến:

Năm kiến: một thức tương ưng là ý; sáu thức không tương ưng.

6. Sáu thức thân với năm xúc.

Hữu đối xúc: năm thức tương ưng, trừ ý; một thức không tương ưng là Ý.

Tăng ngữ xúc: một thức tương ưng là Ý; năm thức không tương ưng, trừ Ý.

Minh xúc: một thức tương ưng là Ý; cả sáu thức đều không tương ưng.

Vô minh xúc và Phi minh phi vô minh xúc: sáu thức tương ưng, sáu thức không tương ưng.

7. Sáu thức thân với năm Thọ căn.

Lạc căn và Xả căn: sáu thức tương ưng, sáu thức không tương ưng.

Khổ căn: năm thức tương ưng, trừ Ý; sáu thức không tương ưng.

Hỉ căn và Ưu căn: một thức tương ưng là Ý; sáu thức không tương ưng.

8. Sáu thức thân với năm pháp.

Tầm và tứ: sáu thức tương ưng; một thức không tương ưng là Ý.

Thức pháp, sáu thức thân không tương ưng: đều không tương ưng.

Vô tàmVô quý: sáu thức tương ưng, sáu thức không tương ưng.

9. Sáu thức thân với sáu xúc thân.

Nhãn xúc: một thức tương ương đó là mắt; năm thức không tương ưng, trừ mắt.

Như nhãn xúc thế nào, thì nhĩ, tị, thiêt, thân, ý xúc theo đó cũng lại như vậy.

Như sáu xúc thân thế nào, sáu thọ thân, sáu tưởng thân, sáu tư thân cũng lại như vậy.

Tiết 3. Môn thứ ba

1. Sáu thức thân với sáu ái thân.

Ái do được sinh bởi nhãn xúc: một thức tương ưng đó là mắt; cả sáu thức không tương ưng.

Như ái được sinh bởi nhãn xúc thế nào, thì ái do mũi, lưỡi, thân, ý xúc sanh tùy theo chỗ thích hợp cũng vậy.

Hai pháp: Vô tàmVô quý.

Thọ của đại địa pháp với hai pháp này, bao nhiêu tương ưng? bao nhiêu không tương ưng?

cho đến thọ được sinh bởi ý xúc với hai pháp này, bao nhiêu tương ưng? bao nhiêu không tương ưng?

Thọ của đại địa pháp và các pháp bất thiện: tương ưng với hai pháp, không phải không tương ưng; các địa pháp còn lại đều không tương ưng.

Như Thọ của đại địa pháp, các địa pháp còn lại cũng như vậy.

Bất tín và các pháp bất thiện: tương ưng với hai pháp; các pháp còn lại đều không tương ưng.

Như Bất tín thế nào, thì các đại phiền não địa pháp khác cũng như vậy.

Phẫn, Hận, Phú, Não, Tật, Xan, Hại: tương ưng với hai pháp, không phải không tương ưng.

Cuống, Siễm, Hại, Kiêu, các pháp bất thiện: tương ưng với hai pháp, không phải không tương ưng.

Trừ Cuống, Siễm, Hại, Kiêu không tương ưng: đều không tương ưng.

Dục thamSân khuể: tương ưng với hai pháp, không phải không tương ưng.

Sắc tham và Vô sắc tham không tương ưng: đều không tương ưng.

Nghi và các pháp bất thiện: tương ưng với hai pháp, không phải không tương ưng.

Trừ Nghi, pháp không tương ưng: nhất định không tương ưng.

Trong năm kiến, hai kiến không tương ưng: đều không tương ưng.

Ba kiến và các pháp bất thiện: đều tương ưng với hai pháp, không phải không tương ưng.

Trừ ba kiến không tương ưng: đều không tương ưng.

Hữu đối, Tăng ngữ, Vô minh xúc và các pháp bất thiện: đều tương ưng hai pháp, không phải không tương ưng.

Trừ ba xúc, không tương ưng: đều không tương ưng.

Minh xúc và Phi minh phi vô minh xúc, không tương ưng: đều không tương ưng.

Lạc căn và các pháp bất thiện: tương ưng với hai pháp; không phải không tương ưng.

Trừ Lạc căn, không tương ưng: nhất định không tương ưng.

Như Lạc căn thế nào; Khổ, Hỉ, Ưu, Xả căn cũng đều như vậy.

Pháp Tầm, Tứ, Thức và các pháp bất thiện: tương ưng với hai pháp; không pháp nào không tương ưng.

Trừ Tầm, Tứ, Thức, pháp không tương ưng đều không tương ưng.

Vô tàmVô quý: nhất định tương ưng, không phải không tương ưng; với Vô tàm nhất định không tương ưng, không pháp nào tương ưng.

Vô quý với Vô tàm nhất định tương ưng, không pháp nào không tương ưng; với Vô quý nhất định không tương ưng, không pháp nào tương ưng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23103)
Đêm Rằm tháng Giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời. Trăng vẫn sáng đẹp như xưa, không có gì thay đổi...
(Xem: 8096)
Có ma hay không có ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Nếu phải trừ ma thì phải làm như như thế nào ?...
(Xem: 20517)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19528)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18400)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16252)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 15940)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 19037)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 14301)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 9617)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát nổi bật và được biết đến nhiều nhất trong tất cả các truyền thống Đại thừa, và đôi khi cả Tiểu thừa, như trường hợp ở xứ Tích lan và Thái lan cũng có thờ Ngài.
(Xem: 8713)
Philippe Cornu là một học giả uyên bác, thông thạo tiếng Tây Tạng, tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Hán… Ông viết bảo, dịch thuật rất nhiều kinh sách, và thường được mời thuyết giảng về Phật giáo trên đài truyền hình Pháp.
(Xem: 8208)
Lý tưởng Bồ tátảnh hưởng lớn trên đời sống, tư tưởng và hành động của người Phật tử trong suốt hơn hai ngàn năm nay...
(Xem: 8910)
Đề tài của buổi giảng hôm nay là nhằm giới thiệu bức tranh ‘Địa Ngục Biến Tướng Đồ’, còn có tên là ‘Thập Vương Đồ’, do lão sư Giang Dật Tử vẽ tại Đài Trung, hiện nay đang được triển lãm tại Kinh Đô, Nhật Bản.
(Xem: 10965)
Phật giáo luôn nhắc nhở con người nên tin ở mình, tinh tấn tu hành để tự giải thoát. Thật chưa có tôn giáo nào xác nhận tinh tấnđộng lực chính giúp con người vươn đến cõi toàn thiện...
(Xem: 9135)
Tác phẩm Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ của Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo là một trong những luận bản phổ biến nhất của Phật Giáo Tây Tạng...
(Xem: 8881)
Đức Phật đã dạy: “Chính sự khao khát là điều dẫn đến sự tái sinh. Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”.
(Xem: 7947)
Đây là thắc mắc mà thanh niên Subha Todeyyaputta từng nêu ra cho Đức Phật với hy vọng tìm kiếm câu trả lời từ Ngài.
(Xem: 9094)
Mọi phương pháp dạy cho con người tránh né khổ đau hay trốn chạy khổ đau để tìm kiếm hạnh phúc đều không phải là những phương pháp giáo dục hoàn chỉnh.
(Xem: 35621)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 8557)
Việt Nam Đạo Phật vốn là một tôn giáo gắn bó với dân tộc, có nhiều ảnh hưởng sâu đậm đến lịch sử phát triển của đất nước, nhất là về mặt văn hóa giáo dục.
(Xem: 15091)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 8701)
Thiền định là một phương pháp hành thiền có nguồn gốc từ đạo Phật được phát triển vững mạnh trong 3 thập niên qua ở Mỹ và nhiều nước khác.
(Xem: 15285)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 9171)
Đại Tạng Kinh là một kho báu chung của mọi người Phật tử, nhưng do nhu cầu học Phật ở mỗi quốc gia mà có sự hình thành các Đại Tạng Kinh bằng những ngôn ngữ khác nhau.
(Xem: 8842)
Tâm Phật rỗng rang, không chất chứa gì cả. Tâm chúng sinh là một kho chứa khổng lồ chất đầy gánh nặng vui buồn, sướng khổ, hận thù, oan khiên nghiệt ngã của quá khứ.
(Xem: 9355)
Gót tu sĩ bốn phương trời rảo bước, Cõi Ta-bà đâu chẳng phải nhà ta, Một mình đi bình bát với cà sa, Đói xin ăn, dưới gốc cây nằm ngủ…
(Xem: 8456)
Hơn ba mươi năm, tôi làm ở hội Từ Tế. Bởi vì, tôi thường làm việc cứu trợ trong và ngoài nước, cho nên tôi cảm nhận được thiên tai, nhân họa liên tục ập xuống trái đất.
(Xem: 10302)
Báo Chánh Pháp số 34, tháng 9 năm 2014, do ĐLHT. Thích Thắng Hoan (CA) và Brodard Chateau, Brodard Restaurant & Bamboo Bistro ủng hộ ấn phí.
(Xem: 7664)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler
(Xem: 9538)
Những chướng duyên có thể giúp hành giả trên đường giải thoát. Ý niệm này, thường tìm thấy trong kinh Phật, dạy cách đánh giá cao những chướng duyên mà chúng ta gặp phải, vì nhờ chúng nên trí tuệtừ bi mới được nảy sinh.
(Xem: 7515)
Chất lượng của tâm niệm thiện lành sẽ tăng rất nhiều khi xưng danh tha thiết; vì thế, từ trạng thái nhớ nghĩ chuyển qua thực hành xưng danh niệm Phật là điều tất yếu.
(Xem: 17226)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15020)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 9500)
Kính thưa thầy, con có một thắc mắc về chơn tâmbản tánh. Sao gọi là chơn tâm? Sao gọi là bản tánh? Vậy giữa chơn tâmbản tánh giống nhau hay khác nhau?
(Xem: 20895)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 9213)
Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo.
(Xem: 7177)
Nếu chúng ta phân tích kinh nghiệm của chúng ta một cách cẩn thận, thế thì tôi nghĩ thật rõ ràng rằng hầu hết những quấy nhiễu tinh thần đến từ những tình trạng tinh thần tiêu cựcchúng ta gọi là phiền não.
(Xem: 17711)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17633)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 25813)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 7814)
Những người được gọi là "siêu việt" là những kẻ chân thành muốn làm tan biến tất cả khổ não của người khác bằng việc thấu hiểu nổi khổ đau của chính họ.
(Xem: 9906)
Cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp.
(Xem: 7273)
Tất cả mọi giáo huấn của Đức Phật đều hướng đến việc đem tới sự thực chứng nguyện vọng tức thời của chúng ta...
(Xem: 9653)
Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Chết không phải là đoạn diệt hẳn, chết tại chỗ này nhưng lại sanh chỗ khác.
(Xem: 8141)
Thật là đại hạnh cho chúng tôi, nếu đức Thế Tôn cho phép nữ giới được sống đời xuất gia phạm hạnh thiêng liêng trong pháp và luật của đức Thế Tôn!
(Xem: 9099)
Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm...
(Xem: 7416)
Nếu bằng "cùng một nơi" chúng ta muốn nói thiên đàng[1] hay giải thoát khỏi vòng luân hồi, thế thì đấy là khó khăn...
(Xem: 8750)
Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày...
(Xem: 7929)
Đức Phật nói lý nhân duyên là nói đến sự thật của đời sống con người và muôn loài vật trên thế gian này.
(Xem: 8333)
Sự hình thành các hệ tư tưởng của Phật giáo Bộ phái không ngoài mục đích đáp ứng nhu cầu thực tế của Phật giáo đương thời, xã hội hoá Phật giáo.
(Xem: 7517)
Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người.
(Xem: 8704)
Chúng sinh trong cõi luân hồi vô thủy vô chung ấy đến rồi đi, đi rồi đến giống như hạt bụi nhỏ, phút chốc bỗng sinh trên trời, bỗng chốc sinh trên mặt đất...
(Xem: 8142)
“Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức” là một chân lý, một sự thật được nói nhiều trong tông Duy thức, và rộng ra, có trong tất cả kinh, luận.
(Xem: 8886)
Dựa theo thuyết Thiên mệnh của Khổng Tử thì thiên mệnh là mạng lịnh của Trời. Thiên mệnh là chủ thuyết rất quan trọng trong triết lý của đạo Nho.
(Xem: 7289)
"Sau khi tôi nhập diệt, giới luật sẽ thay tôi để làm thầy của quí vị, ở đâu có giới luật thì ở đó có tôi..."
(Xem: 13994)
Tập hợp các bài viết của nhiều tác giả cùng 1 chủ đề: Tứ Diệu Đế, Bốn Chân Lý cao cả
(Xem: 7104)
... nghành Tâm lý học sẽ không bao giờ có thể giúp con người thấy đúng và rõ sự thật của tâm lý mình và tâm lý người khác.
(Xem: 10337)
Duy thức học là một học thuyết tuy được xác lập vào khoảng thế kỷ thứ tư...
(Xem: 7672)
Giáo huấn của Đức Phật nhấn mạnh rằng không có một linh hồn độc lập hay một tự ngã độc lập.
(Xem: 8480)
Trong một quyển sách nhỏ «Phật Giáo Nhập Môn» tác giả Fabrice Midal đã dành riêng một chương để tóm lược thật ngắn gọn một số các khái niệm căn bản...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant