Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lạ…

25 Tháng Tư 201910:07(Xem: 3525)
Lạ…

LẠ…

Minh Mẫn

Cái gì chưa biết,  gặp lần đầu thấy cũng lạ Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ Cái gì chưa bao giờ nghe, mới nghe lần đầu thấy cũng lạ…

Đành là thế, nhưng thế cũng chưa phải LẠ, có những cái từng biết, từng gặp, từng nghe mà vẫn thấy Lạ! Trong cuộc sống có nhiều cái lạ, quá lạ;

Thường lạ trở thành Lạ thường, nhưng khi xét lại vẫn luôn là Lạ.

Tàu lạ đâm ngư dân, không phải không biết tàu đó của ai, nhưng lạ là từng thề thốt “môi hở răng lạnh, thắm thiết 16 chữ vàng” thế mà vẫn giết nhau mới Lạ.

                                                      ***

Khi ấy, đức Phật đang ở tại thành Vương Xá, vào buổi sáng sớm đi khất thực, nhìn xa xa về phía núi Kê Túc thấy có một chàng con nhà trưởng giả tên Thi-ca-la-việt đang chải đầu, súc miệng, rửa mặt, thay y phục sạch sẽ, rồi hướng về phương đông lạy 4 lạy, hướng về phương nam, phương tây, phương bắc cũng lạy mỗi phương 4 lạy, lại hướng lên trời lạy 4 lạy, hướng xuống đất lạy 4 lạy. Đức Phật liền đến nhà người ấy, hỏi: “Con đang làm gì vậy?”  Thi-ca-la-việt đáp: “Con ở đây lễ lạy sáu phương.” Đức Phật hỏi: “Lễ lạy sáu phương như vậy là theo pháp gì?”  Thi-ca-la-việt đáp: “Khi cha mẹ còn sống có dạy con mỗi buổi sáng sớm phải lễ lạy sáu phương, con cũng không hiểu để làm gì. Nay cha mẹ đã qua đời, con không dám trái lời dạy.” Phật nói: “Cha mẹ con dạy việc lễ lạy sáu phương không phải dùng thân lễ lạy như thế.Con đã hiểu sai ý của cha  mẹ con rồi.” Thi-ca-la-việt liền quỳ xuống thưa: “Xin Phật từ bi vì con giảng giải ý nghĩa việc lễ lạy sáu phương.” Phật dạy: “Được, con hãy lắng nghe cho kỹ! Hãy để tâm vào lời dạy, ta sẽ vì con giảng   rõ.  “Hàng trưởng giả, những người trí thức, nếu như có thể trừ dứt sáu pháp xấu ác, đó chính là lễ lạy sá phương. “Những gì là sáu pháp xấu ác? Một là tham uống rượu, hai là mê cờ bạc, ba là thích ngủ sớm dậy trễ, bốn là ưa mời thỉnh khách khứa, năm là thích kết giao cùng kẻ xấu, sáu là ham thích việc giết hại, lừa gạt, dan díu vợ người. Nếu có thể trừ dứt sáu việc ấy,đó là lễ lạy sáu phương.  “Nếu con không trừ được sáu việc ấy thì sự lễ lạy nào có ích gì? Lại còn lan tràn tiếng xấu, việc nhà rối loạn, tiền của tiêu tốn, thân thể yếu đuối, gầy còm, việc lành ngày càng mai một, kẻ xa người gần không còn ai kính trọng! Phật lại bảo Thi-ca-la-việt: “Bảo con lễ lạy phương Đông là có ý nghĩa phụng dưỡng  cha  mẹ…
“Lễ lạy phương Nam là có ý nghĩa người học trò phụng sự thầy…
“Lễ lạy phương Tây là có ý nghĩa vợ chồng đối đãi nhau theo lễ… 
“Lễ lạy phương Bắc là có ý nghĩa trong sự giao tiếp cư xử với thân thuộc, bạn bè, đôi bên …
“Lễ lạy phương dưới là có ý nghĩa người chủ và kẻ giúp việc cư xử với nhau trên tinh  thần trách nhiệm…
 “Lễ lạy phương trên là có ý nghĩa bổn phận của người cúng dường các bậc sa-môn, thiện tri thức. Nếu không làm được như vậy, dù lễ lạy cũng là vô ích.” Bấy giờ, Thi-ca-la-việt liền xin thọ trì Năm giới, ân cần lễ bái Phật…

Lần đầu tiên Thi Ca La nghe được giáo nghĩa sâu xa việc lễ lục phương, thầm nghĩ kể cũng LẠ.

                                                     ***

Suốt 45 năm khuyến giáo đồ chúng, hầu hết đệ tử của Ngài phát xuất từ Bà La Môn giáo;Một tôn giáo nặng đa thần, có đệ tử xuất thân từ Hỏa thần giáo, cũng có vị là Phiếm thần giáo…thế nhưng, họ đều lấy làm lạ trước một giáo pháp chưa từng có trong xã hội Ấn lúc bấy giờ. Phật dạy: “không có giai cấp trong giòng máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn”, một tuyên ngôn bình đẳng giai cấp trong xã hội bị ràng buộc 4 giai cấp một cách chặt chẻ mà tu sĩ, tôn giáoquần chúng buộc phải chấp hành, kể cũng Lạ. Cái Lạ nữa là ngoài 1250 Tỳ kheo trực thuộc Tăng đoàn thân cận Phật, còn vô số sa môn, rãi rác khắp thôn xóm, núi rừng, đa phần tăm tắp nghiêm trì giới luật, oai nghi tế hạnh làm nổi bậc khác hẳn giữa các đạo sĩ của các tôn giáo đương thời.Chinh vì  do thân hành nghiêm túc mà suốt 12 năm đầu, chưa có vị Sa môn nào phạm luật, Phật chưa giáo giới.Năm thứ 13, có hiện tượng pháp hữu lậu xuất hiện, Tăng đoàn ít có phần chứng đắc giải thoát, ngài Tu Đề Na là vị Tăng đã trở về với gia đình sống chung vợ con như lúc chưa xuất gia,từ đó đức Thế Tôn mới chế giới, áp dụng cho vị nào phạm giới để thanh tịnh hóa Tăng đoàntrang nghiêm giáo đoàn, làm chỗ dựa cho chư Thiênloài người. cho nên,Hán tạng gọi là “Thập cú lợi”, Pali gọi là “Thập lợi”. Mười điều lợi đó là:

 1. Chỉnh đốn Tăng già 2. Làm cho Tăng hoan hỷ 3. Khiến cho Tăng được an lạc 4. Giúp ngời chưa tin sanh lòng tin 5. Giúp người đã tin càng thêm bền vững 6. Điều phục những người khó điều phục 7. Làm cho người hỗ thẹn được an lạc 8 Đoạn nghiệp hữu lậu trong hiện tại 9. Đoạn trừ nghiệp hữu lậu trong tương lai 10. Khiến Chánh pháp trụ lậu lâu dài.

Chư Tăng phạm giới làm ảnh hưởng đến ba vấn đề tự thân người phạm trong việc tu tập, ảnh hưởng đại chúng và mất niềm tin với quần chúng:

1. Trở ngại con đường giải thoátquả chứng 2. Tổn thương đến sự hòa hợpan lạc của Tăng đoàn 3. Gây sự chê bai, hủy báng hay làm mất niềm tin đối với quần chúng.

Việc chế định giới luật là điều tất yêu để duy trì mạng mạch Phật pháp cũng chưa có gì lạ, Một cái Lạ là lúc đương thời, Phật vừa viên tịch khi  ấy, thầy tỳ kheo tên Bạt nan đà cũng có mặt, chợt phát biểu : “ lúc này chúng ta nên vui mừng chứ sao lại khóc lóc như thế. Như lai đã nhập diệt rồi, khỏe, chúng ta từ nay được tự do khỏi bị câu thúc hay ức chế gì nữa, muốn làm gì thì làm, mặc sức.”. Nghe những lời vô trí của tỳ kheo ấy, tôn giả Ca Diếp xót xa, lo lắng từ nay vắng bóng đức Đạo sư, không biết kỷ cương phép tắc của tăng chúng sẽ ra sao nữa ?Ngài bèn triệu tập 500 bậc La Hán cử ngài Ưu ba Ly trùng tụng 80 lần luật giới, toàn đại chúng nhất trí giữ nguyên không thêm bớt giới luật do đức Thế Tôn chế tác. Tuy nhiên, tùy hoàn cảnhlinh động châm chước những điều nhỏ nhặt. (Luật học đại cương).

Không quy định rõ giới nào là nhỏ, nhưng qua  nhiều lần trùng tụng, cả Nam và Bắc truyền đều thống nhất những giới trọng không hề sai biệt. Có một điều lạ, tuy là giới trọng không thay đổi, nhưng trong thời gian càng xa Phật, giới trọng lắm khi bị xem nhẹ hơn điều nhỏ, cái mà linh hoạt gia giảm điều nhỏ thì giới trọng cũng bị linh hoạt gia giảm một cách linh tinh, từ đó,Ba La Di là giới mà một khi tu sĩ phạm xem như không còn giới thể của một vị Tăng, bị tẩn xuất khỏi cộng trụ giới.

Ba La Di là giới quan trọng của tu sĩ, ngày nay, việc sai phạm thường xuyên mà không thấy Tàm quý cũng là chuyện Lạ  trong nhà Phật. Sinh thời đức A Nan nằm mộng thấy 7 điều chẳng lành, đem trình với đức Phật:

KINH BẢY GIẤC MỘNG CỦA ANAN Hán dịch: Đời Đông Tấn_Thiên Trúc Tam Tạng TRÚC ĐÀM VÔ LAN Việt dịch: HUYỀN THANH A-Nan (Ānanda) ở tại nước Xá Vệ (Śrāvastī) có bẩy giấc mộng, nên đi đến thỉnh hỏi  Đức Phật.  Ngài A Nan, đệ nhất đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni trong 27 năm, khi còn trú tại thành Xá Vệ, ở phía Bắc Ấn Độ, Ngài đã có 7 giấc mơ kỳ lạ:

1. Mộng thấy lửa cháy đùng đùng trên mặt nước, những cột lửa nghi ngút tận trời cao. 2. Mộng thấy mặt trời biến mất, để lại thế giới Ta Bà chìm trong bóng tối. Thậm chí không có một vì sao trên bầu trời. 3. Các tăng ni, phật tử bị rơi xuống một cái hố sâu, để cho con người thế tục bước qua trên đầu. 4. Rất nhiều lợn rừng trong rừng rậm đào xới gốc cây Bồ Đề. 5. Mộng thấy A Nan đội đỉnh núi Tu Di trên đầu mà không hề thấy nặng. 6. Voi bố mẹ bỏ lại đàn con của mình. 7. Cái chết của sư tử, chúa tể rừng xanh. Những cánh hoa rơi trên xác con sư tử, tất cả thú vật đều bỏ chạy toán loạn. Không lâu sau, các con bọ bắt đầu xuất hiện trong cái xác và ăn thịt nó.

Những điềm mộng báo hiệu mạng mạch Phật pháp suy tàn sau khi đức Thế Tôn nhập Niết bàn; như thế cũng chưa lạ mà lạ là các trưởng tử Như Lai chú trọng bề ngoài, chú trọng áo mão xuênh xoang, tranh đua quyền cao chức trọng, chạy chọt giáo phẩm cao quý, hãnh diện vật chất cao sang…giữa lúc quần chúng thèm đói giáo pháp; quần chúng vùng sâu vùng cao ước mongbóng dáng Tăng sĩ hòa nhập vào đời sống bần khổ cùng họ.Sống nhờ bá tánh mà chả ai chịu khó đến với bá tánh cũng là chuyện hết sức Lạ. Còn vô số cái lạ khi (Giáo Hội) Phật Giáo Việt Nam được nhà nước hỗ trợ mọi mặt, phát triển bề nổi mà nội lực thiếu rèn luyện. Những bậc chuyên tu như đức Pháp chủ hay một số vị ẩn cư không đủ vực dậy những giới luật trong hàng Tăng chúng. Bản thân Ban Tăng sự dẫm chân tại chỗ, hơn 40 năm thống nhất mà Tăng sự chưa có kế hoạch chỉnh đốn Tăng già, củng cố nội lực, chưa có viện chuyên tu thực sự để có những sứ giả chân chánh ra phụng sự đạo. Phải chăng, những chức sắc trong GH không cần kiến thức, không cần chân tu,không cần giới luật, không cần năng động, miễn đáp ứngthừa hành tốt mọi công việc được giao, đó là chuyện Lạ trong một tổ chức không còn lạ hiện nay.

Một chuyện lạ là có vài người mặc áo tu sĩ và sau đó, cả trăm thiện nam tín nữa mặc áo Lam, từ miền ngoài đến xin Lòng thương xót của Chúa ở Giáo Điểm do cha Trương đình Long quảng cáo thiếu nghiêm túc, đa phần là những kẻ không hiểu Phật pháp, không có trình độ hiểu biết, trong khi, trước 1975 cũng như sau này, nhất là Làng Mai, một số tu sĩ khác đạo có trí thức, vẫn lặng lẽ quy y nhà Phật mà chả ai làm rùm beng, kể cũng Lạ.

Thế thì chả Lạ gì những hiện tượng bất bình thường trong PG để rồi quần chúng bức xức bêu rếu những tà sư giả danh làm ô nhục nhà Phật. Chư Tăng tùy nghi linh động với pháp thế gian để lấy lòng dẫn dắt quần chúng, phương tiện đó lâu dần biến thành tùy tiện bị chúng sanh dắt dẫn theo nhu cầu của họ mà không hay.Thế giới ngày nay, chánh tà bất phân, tà mạnh chánh yếu, chánh bị xem là tà, tà được xem là chánh. Tâm thế đảo điên, chính vì vậy nhiều bậc chân chánh đều ẩn thân hoặc im lặng trước làn sóng áp đảo tà tâm.Đó là chuyện lạ giữa cuộc sống được xem là không lạ hiện nay.

 

Minh Mẫn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9983)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7085)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7333)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6989)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9351)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5833)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7100)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6521)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6097)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7160)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14379)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20428)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9468)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7866)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8184)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7447)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9372)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7443)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7478)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7664)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9469)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8776)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7368)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7956)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7008)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7665)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9855)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8281)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8831)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7666)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8824)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8628)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 7999)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9009)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9426)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8728)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8880)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7222)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9182)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8596)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7889)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9617)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10164)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8758)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8368)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7622)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9324)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7473)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15348)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7295)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8475)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12228)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7299)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11492)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8310)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8040)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7902)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8917)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(Xem: 7405)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
(Xem: 18177)
“Ăn Cơm Hương Tích, uống Trà Tào Khê, ngồi Thuyền Bát Nhã, ngắm Trăng Lăng Già”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant