Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lắng Nghe Lời Phật, Thoát Mọi Phiền Hà

03 Tháng Tám 201910:12(Xem: 3159)
Lắng Nghe Lời Phật, Thoát Mọi Phiền Hà

LẮNG NGHE LỜI PHẬT, THOÁT MỌI PHIỀN HÀ
Diệu Thanh

Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều bất thiện pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều thiện pháp cho chúng ta”.

Những thổ lộ trên là cảm niệm của Tỷ-kheo Udàyi về ân đức ban bố giới luật của Đức Phật, sau khi tự thân đã trải qua nhiều chuyện phiền toái do lối sống thiếu tiết độ. Tự thân có nếm trải và nhận ra bao chuyện rắc rối do tính tùy tiện trong sinh hoạt và ứng xử hàng ngày tạo ra thì mới cảm nhận được tình thương và sự ân cần chu đáo của bậc Đạo sư, được thể hiện qua chế độ giáo dục khá khắt khe của Ngài; nhất là việc Ngài quan tâm uốn nắn từng li từng tí các thói quen sinh hoạt hàng ngày cho các đệ tử. Phật ban hành giới luật, quy định nếp sống kỷ cương tiết độ cho người xuất gia, không gì khác hơn để mang lại tự doan lạc cho các học trò mình.


Trong phương pháp huấn luyện đệ tử, Đức Phật chú ý thiết lập giới luật cho hàng xuất gia, thực sự là để giúp cho cá nhân các Tỷ-kheo thực hành đúng đạo lý giải thoát, nghĩa là thực hiện nếp sốngkỷ cương tiết độ thuận lợi cho việc tu tập thân tâm đạt đến an lạc giải thoát, giữ gìn các hành vi của thân, lời và ý theo đúng Bát chánh đạo. Căn bản của giới luật nhà Phật là thực hành “thiểu dục tri túc” nhằm ngăn ngừa và khắc phục các hành vi sai trái hoặc các thói quen xấu gây trở ngại cho sự tu tiến của bản thân, tránh gây phiền hà cho người khác hay cho đời sống tập thể. Các hành vi sai trái hay các thói quen tiêu cực của con người có nguồn gốc từ lòng tham dục. Ví dụ, do chiều chuộng các ham muốn giác quan hay các đòi hỏi của cơ thể mà con người ham ăn ham ngủ; do thích thú cảm giác được ca tụng tâng bốc mà con người đua đòi chưng diện...

Thấy rõ hậu quả phiền toái tiềm ẩn trong các thói quen như vậy, Đức Phật chú ý tập cho các đệ tử mình một lối sống giúp họ tự khắc phục và loại trừ những ham muốn tiêu cực. Ngài huấn luyện các học trò mình rất kỹ1 , quy định đến cả việc ăn mặcchừng mực. Lẽ tất nhiên, người biết kiềm chế bản thân, sống với hạnh thiểu dục tri túc thì không có nhiều nhu cầu, không đua đòi, ít lăng xăng bận rộn, không bị các ham muốn ràng buộc, luôn luôn thanh thản và cảm nhận tự do. Phật gọi lối sống kỷ cương tiết độ như vậy là Pàtimokkha, có nghĩa là thoát khỏi các phiền toái khổ não do hành vi sai trái hay thói quen ham muốn tiêu cực gây nên. Pàtimokkha cũng có nghĩa là “biệt giải thoát”, ngụ ý rằng khắc phục được một ham muốn thì con người sẽ có được một sự giải thoát hay tự do, vì không còn bị ham muốn đó chi phối khiến có các hành vi sai trái đưa đến hậu quả khổ đau. Giới luật nhà Phật là thực hiện nếp sống an lạc, có công năng loại trừ các phiền não khổ đau, và đem lại cho con người sự tự do thanh thản.

Trong sinh hoạt hàng ngày, chúng ta gặp nhiều chuyện phiền toái mà xét cho cùng thì đều do thói quen ham muốn tạo ra. Chỉ một việc ăn uống không thôi cũng mang đến cho ta lắm chuyện phiền hà nếu ta không kiểm soát được sở thích của mình. Ăn uống, vốn là việc khá giản dị trong đời sống hàng ngày, ngày nay đã trở thành mối bận tâm đối với nhiều người vì nhiều lý do chủ quan lẫn khách quan. Thói quen hưởng thụ khiến người tiêu dùng ngày nay cảm thấy băn khoăn khi phải đối diện với thực trạng thực phẩm thiếu vệ sinh và không an toàn cứ tiếp tục chi phối và chiếm lĩnh thị trường bởi những nhà kinh doanh khao khát lợi nhuận. “Cái này sinh thì cái kia sinh”, tập quán hưởng thụ đã kích thích thói quen gian dối.

Với kinh nghiệm của bậc Giác ngộ, Đức Phật nêu rõ cuộc sống chỉ là một chuỗi các hành vitính cách thói quen mà nếu được uốn nắn đều trở thành đứng đắn, giản dị và thanh thoát. Từ chuyện ăn, chuyện mặc cho đến suy nghĩ, nói năng, hay hành động, tất cả đều là thói quen có thể được uốn nắn điều chỉnh theo chiều hướng tốt đẹp. Đã chiến thắng mọi ham muốn, Đức Phật cũng tập cho đệ tử của mình có thói quen sống chừng mực và hành xử đứng đắn. Ngài đánh giá cao ý chí tự điều chỉnh của mỗi cá nhân, cho rằng ai cũng có khả năng khắc phục ham muốn tiêu cực của bản thân để được thanh thản tự do, dễ nuôi sống, ít lăng xăng bộn rộn, không phạm sai lầm, sống với tâm tư hồn nhiên hoan hỷ2 . Nhờ sống chừng mựcđiều độ, bỏ được thói quen ăn ban đêm, mà Đức Phật cảm thấy ít bệnh, ít não, khinh an, có sức khỏe tốt và sống an lạc; do đó, Ngài khuyên các đệ tử tập sống có tiết độ để thực nghiệm lợi lạc:

“Này các Tỷ-kheo, Ta ăn, từ bỏ ăn ban đêm. Này các Tỷ-kheo, do từ bỏ ăn ban đêm, Ta cảm thấy ít bệnh, ít não, khinh an, có sức lựcan trú. Này các Tỷ-kheo, hãy đến và ăn, từ bỏ ăn ban đêm. Này các Tỷ-kheo, do từ bỏ ăn ban đêm, các Thầy sẽ cảm thấy ít bệnh, ít não, khinh an, có sức lực và an trú”3 .

Đây là lợi ích thiết thực mà chính Đức Phật đã trải nghiệm nhờ điều phục các ham muốn của bản thân. Phật là người đã tu tập, đã thực nghiệm nếp sống giải thoát an lạc và mong muốn chia sẻ kinh nghiệm ấy cho người khác. Vì thế mà lời Phật là lẽ sống thực tiễn, là “thiết thực hiện tại”, “đến để mà thấy”, “được người có trí tự mình giác hiểu”. Thế nên, người nào biết lắng nghe và thực hành theo lời Phật thì nhất định sẽ cảm nghiệm được tự dolợi lạc. Tâm sự của Tỷ-kheo Udàyi sau đây4 nói cho chúng ta biết lời Phật là bài học thực tiễn mà những ai biết lắng nghe và nỗ lực thực tập thì sẽ tránh được nhiều rắc rối phiền hà phát sinh bởi thói quen trong sinh hoạt hàng ngày:

“Bạch Thế Tôn, trong khi con đang độc cư Thiền tịnh, sự suy tư sau đây đã khởi lên trong tâm trí con: “Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta”.

Bạch Thế Tôn, thuở trước, chúng con thường ăn buổi chiều, buổi sáng, ban ngày và phi thời. Bạch Thế Tôn, thời ấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo và bảo: “Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ ăn ban ngày phi thời”. …

Bạch Thế Tốn, giữa chúng con, những ai nhìn Thế Tôn với lòng ái mộ, với lòng tôn kính và với lòng tàm quý, liền từ bỏ ăn ban ngày phi thời.

Rồi bạch Thế Tôn, chúng con thường ăn buổi chiều và buổi sáng. Bạch Thế Tôn, thời ấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo và bảo: “Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ ăn ban đêm phi thời”. ...

Bạch Thế Tôn, giữa chúng con, những ai nhìn Thế Tôn với lòng ái mộ, với lòng tôn kính và với lòng tàm quý, liền từ bỏ ăn ban đêm phi thời. Thuở trước, bạch Thế Tôn, các vị Tỷ-kheo thường đi khất thực trong đêm đen tối tăm. Họ bước lầm vào vũng nước nhớp, rơi vào vũng nước nhớp, đi lầm vào hàng rào gai, đi lầm vào chỗ con bò cái đang ngủ, gặp các loại đạo tặc đã hành sự hay chưa hành sự, gặp các người đàn bà mời mọc một cách bất chánh. Thuở trước, bạch Thế Tôn, con đi khất thực trong đêm đen tối tăm. Một người đàn bà đang rửa chén bát, thấy con trong khi trời chớp nhoáng, liền hoảng sợ và hét lớn: “Ôi kinh khủng thay cho tôi, có con quỷ chạy theo tôi!”.

Bạch Thế Tôn, khi nghe nói vậy, con nói với người đàn bà ấy: “Này chị, không phải quỷ đâu. Đây là Tỷ-kheo đang đứng khất thực”. “Cha Tỷ-kheo hãy chết đi! Mẹ Tỷkheo hãy chết đi! Này Tỷ-kheo, thật tốt hơn cho ông nếu ông lấy con dao sắc bén của người đồ tể cắt bụng của ông, còn hơn là vì lỗ bụng đi khất thực trong ban đêm tối tăm”.

Bạch Thế Tôn, khi con nhớ như vậy, con suy nghĩ như sau: “Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều bất thiện pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều thiện pháp cho chúng ta”.


Chú thích:
1. Kinh Điều ngự địa, Kinh Ganaka Moggallàna, Trung Bộ.
2. Kinh Thừa tự Pháp, Kinh Ví dụ Con chim cáy, Trung Bộ.
3. Kinh Kitagiri, Trung Bộ.
4. Kinh Ví dụ Con chim cáy, Trung Bộ

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5815)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7431)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6366)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5963)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4741)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5677)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5848)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6114)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6593)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5941)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7056)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6659)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4779)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4925)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7703)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9815)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7512)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5322)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6423)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5405)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5829)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6390)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5694)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6434)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7058)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6271)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10649)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6665)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6148)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6710)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6111)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6480)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5511)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8232)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5728)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7555)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6248)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9653)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4057)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6394)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4161)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4303)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4753)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5305)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5276)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5813)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6768)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5549)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4490)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5328)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 4986)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4356)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6867)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4601)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8403)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7210)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8363)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
(Xem: 7492)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
(Xem: 7564)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
(Xem: 6099)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant