Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12. Phát huy tâm thức giác ngộ

04 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 8768)
12. Phát huy tâm thức giác ngộ


Đức Đạt Lai Lạt Ma
TU TU
Bản tiếng Anh:Practicing Wisdom - Nhà xuất bản Wisdom
Bản tiếng Pháp: Pratique de la Sagesse - Nhà xuất bản Presses du Châtelet
Bản dịch Việt ngữ: Hoang Phong - Nhà xuất bản Phương Đông TP. Hồ Chí Minh 2008

12
Phát huy tâm thức giác ngộ

Yêu thương kẻ khác là một sự lợi ích

 Tịch Thiên xác nhận rằng hạnh phúchân hoan thoát ra từ ý chí của ta mong muốn đem đến sự tốt đẹp cho tất cả những sinh linh có giác cảm khác, trong khi đó, những khó khăn, những thảm trạngtai họahậu quả của sự kiện ta chỉ biết lo nghĩ đến chính ta.Tịch Thiên tự hỏi tại sao ta lại phải đề cập đến việc ấy : chỉ cần nhìn vào những phẩm tính của Phật, Ngài ước mong đem đến những gì tốt đẹp cho tất cả chúng sinh và số phận của chúng ta, tức thể dạng thường ngày mà chúng ta đang gánh chịu ? Chúng ta sẽ dẽ dàng nhận thấy luận cứ ấy là đúng khi so sánh giữa thử thách của những con người bình thường với những đức tính giác²ngộ và trí tuệ của chư Phật, điều ấy còn giúp ta so sánh giữa những xứng đáng và lợi ích về lòng ước vọng thiết tha đem đến sự tốt lành cho những chúng sinh có giác cảm và những tệ hại và bất lợi của thái độ ích kỷ, chỉ biết hướng về sự tốt lành của chính ta. 

Tịch Thiên tự hỏi tại sao trong khi mà tất cả chúng sinh, cũng như chính ta, đều có cùng một ước vọng đạt được hạnh phúc và loại trừ khổ đau, ta lại chỉ biết tìm cách phục vụ cho quyền lợi của chính ta, làm tổn hại đến quyền lợi của kẻ khác – đến độ không còn biết nghĩ gì đến kẻ khác ? Câu hỏi này nêu lên một sự thật lớn lao.Cũng giống như chính ta, tất cả những chúng sinh khác đều mong mỏi được hạnh phúc và loại trừ khổ đau ; mỗi người trong chúng ta đều hiểu rằng tiếp theo sau những cảm nhận về hân hoanhạnh phúc là những gì bất toại nguyện sẽ xảy ra. Cũng như chính tôi đây, với tư cách là một cá nhân, nếu đương nhiên tôi có quyền thực hiện ước vọng đạt được hạnh phúc và loại trừ khổ đau, thì tất cả những chúng sinh khác cũng có cái quyền ấy. Công nhận sự công bằng cơ bản nàytrên đây là một điều thật hết sức quan trọng.

Vậy sự khác biệt giữa những kẻ khác và ta là gì ? Dù rằng tất cả kẻ khác thật vô cùng quan trọng và quý giá, nhưng ta chỉ biết nghĩ đến quyền lợi riêng cho một người. Mặc cho sự đau đớn của kẻ khác có dữ dội đến đâu đi nữa, ta chỉ quan tâm đến sự sự an vui của chính ta mà thôi. Thế mà, mỗi khi nói đến sự an vui của những sinh linh có giác cảm khác, ta có hiểu được chăng chữ khác chỉ định vô số chúng sinh. Dù cho sự đớn đau của môt chúng sinh khác đối với ta quá nhỏ nhoi đi nữa, nhưng những đớn đau của những chúng sinh khác khi cộng lại thì thật là vô biên. Vì thế, theo quan điểm dựa trên lượng chất, sự an vui của kẻ khác trở nên quan trọng hơn sự an vui của riêng ta rất nhiều.

Mặc dù ta chỉ nghĩ đến quyền lợi của chính ta, nhưng khi những kẻ khác được hài lònghạnh phúc, ta cũng được hửng lây. Trái lại, nếu những kẻ khác luôn luôn đang btrong tình trạng đớn đau triền miên, chính ta cũng sẽ rơi vào một số phận như thế. Thật hết sức rõ ràng quyền lợi của kẻ khác liên hệ chặt chẻ với quyền lợi của chính ta. Hơn nữa, ta đã thấy rõ qua kinh nghiệm cá nhân của ta, nếu ta càng bám níu vào « cái tôi » – tức càng chăm lo quyền lợi của riêng ta – thì những vấn đề tâm lý và xúc cảm của ta lại càng trở nên trầm trọng hơn.

Nhất định, quan tâm đến chính ta là một điều hết sức quan trọng. Nhưng muốn thực hiện điều đó phảỉ biết chọn môột thái độ thực tế hơn, có nghĩa là không nên xem quyền lợi của ta quan trọng quá đáng và hãy nghĩ đến sự an vui của kẻ khác nhiều hơn. Hãy tỏ ra thương người nhiều hơn và quan tâm đến sự an vui của kẻ khác thực rathái độ rất lành mạnh dù chỉ để thỏa mãn quyền lợi của riêng ta. Khi ta biết hành động như thế, ta sẽ nhận ra một sự thay đổi quan trọng trong ta, đó là một thứ cảm tính an bình. Ta sẽ không hành động một cách ngược ngạo xem những việc nhỏ mọn trở thành to lớn giống như cả sinh mạng ta liên hệ vào đấy, và cả danh thơm của ta, cả cá tính của ta và cả kiếp sống của ta cũng bị hăm dọa. Nếu ta chỉ biết thường xuyên nghĩ đến quyền lợi của riêng ta – và hoàn toàn quên đi sự an vui cũa kẻ khác – thì một biến cố nhỏ nhoi nhất cũng có thể gây cho ta những bấn loạn mãnh liệt hay những vết thương trong nội tâm của ta. Kinh nghiệm cá nhân chứng minh cho ta những điều đó.

Tóm lại, thái độ thương người đó thật lợi ích vừa cho kẻ khác lại vừa cho ta nữa. Đặt tâm thức ta dưới sự nô lệ của ích kỷ sẽ kéo dài vô tận những cảm tính bất toại nguyện, thiếu thốnbất hạnh mang tính cách nhất thời hay lâu dài. Ta phung phí cơ duyên tuyệt vời mà ta đang có – tức cơ duyên được làm thân con người, được thừa hưởng những khả năng tuyệt mỹ, như trí thông minh có thể giúp ta đặt được những mục tiêu cao cả nhất. Vì vậy thật hết sức quan trọng phải biết ước lượng những hậu quả do những hành vi của ta gây ra trong nhất thời và trong lâu dài. Có phương cách nào hơn để đem đến cho cuộc sống làm người của ta một ý nghĩa, nếu không phải đó là phương cách suy tư về bồ-đề tâm, tức ước vọng thương người mong đạt cho được giác ngộ vì sư an vui của tất cả những sinh linh có giác cảm ?

Làm phát sinh tâm thức giác ngộ

 Về phần riêng tôi, tôi không dám nghĩ rằng đã đạt được tâm thức giác ngộ – hay Bồ-đề tâm – dù tôi hết sức mến phục những điều đó, nhưng tôi cảm thấy cảm tính mến phục ấy đã đem đến sự phong phú cho tôi và nguồn can đảm cho tôi, và đó cũng là nền móng xây dựng hạnh phúc của tôi ; chính nhờ nó, tôi mới đủ khả năng giúp kẻ khác được hạnh phúc, và tôi đã cảm nhận được sự hài lònghoan hỉ. Tôi hoàn toàn hy sinh cho lý tưởng thương người đó và tôi sẽ luôn luôn trung thành với lý tưởng đó – dù cho tôi ốm đau hay khoẻ mạnh, trong suốt tuổi già của tôi hay trong khi chết – và đối với nó, tôi tin chắc rằng tôi sẽ luôn luôn giữ được lòng mến phục sâu xa. Hỡi các bạn hữu của tôi, tôi mong muốn xin các bạn hãy tập làm quen nhiều chừng nào hay chừng ấy với Bồ-đề tâm. Nếu có thể được, các bạn hãy dốc hết nổ lực để làm phát sinh trong lòng các bạn thái độ thương người và lòng từ bi. 

1-10- Tư duy ấy đã biến thân xác ô uế này thành một hình ảnh vàng ngọc và vô giá : ấy là Phật. Hãy nắm thật chặt vị thuốc mầu nhiệm này, tên gọi của vị thuốc là Tư duy của Giác ngộ !

 Khi ta suy tư hời hợt về Bồ-đề tâm, ta thấy nó tương đối khá đơn giản ; nó tỏ ra không đến đỗi quá hấp dẫn như thế. Các cách thiền định tan-tra xem nó như cơ bản của mạn-đà-la (môt khái niệm quan trông của Phật giáo Tây tạng, dưới hình thức một tranh vẽ, tượng trưng cho vũ trụ và những sức mạnh của vũ trụ giúp cho việc thiền định) và của các thần linh, điều này có thể tỏ ra vô cùng huyền bí cho ta, và cũng vì thế nên nó cũng trở nên hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, khi ta bước vào tu tập, Bồ-đề tâm sẽ trở thành vô tận. Với nó ta sẽ không gặp bất cứ một bất ngờ nào làm cho ta vỡ mộng hay thối chí, trong khi đó những cách thiền định dựa vào thần linh, tụng kinh man-tra, cũng như các cách tu tập khác, đôi khi đưa đến thất vọng, bởi vì ta đặt vào đó những tham vọng quá lớn. Sau nhiều năm tu tập, ta có thể thốt lên : « Mặc dù tôi đã có tu tập thiền định dựa vào một thần linh và tôi cũng có tụng tất cả các kinh sách man-tra, nhưng tôi chẳng thấy một tiến bộ nào cả ; tôi chẳng cảm nhận được một kinh nghiệm thần bí nào cả » Tu tập về Bồ-đề tâm không đưa đến sự thất vọng đại loại như kiểu đó. Việc tu tập Bồ-đề tâm đòi hỏi một thời gian lâu dài, thật hết sức quan trọng khi ta bắt đầu đạt được một chút kinh nghiệm, hãy bộc lộ sự quyết tâm đó bằng những lời nguyện cầu dưới sự chứng kiến của một vị đạo sư hay trước một vị đại diện cho Phật. Hành vi này sẽ làm gia tăng thêm sức mạnh về Bồ-đề tạm của ta. Tu tập về Bồ-đề tâm là một nghi lễ đặc biệt, trong dịp này và trước mặt một vị thầy, ta phát nguyện cầu xin đạt được giác ngộ vì an vui của tất cả chúng sinh.

Phần đầu trong nghi lễ này là sự phát hiện ước vọng về Bồ-đề tâm. Làm phát sinh ước vọng thương người để đạt được Bồ-đề tâm vì sự an vui của tất cả chúng sinh tức là ta tự cam kết không từ bỏ và không làm suy thoái lòng nhiệt tâm đó, không những trong kiếp sống này, mà trong cả những kiếp sống về sau nữa. Muốn thực hiện lời cam kết đó phải noi theo một số giới luật. Phần thứ hai của nghi lễphát nguyện của người Bồ-tát ; người phát nguyện phải thực hiện xong phần thứ nhất của nghi lễ.

Sau khi đã phát nguyện, dù muốn hay không, dù đièu ấy có đem đến thích thú hay không, ta phải xem những lời phát nguyện ấy quý giá hơn mạng sống của chính ta. Sự quyết tâm giữ vững những lời phát nguyện đó phải vững chắc như một quả núi ; ta hứa từ giờ phút này phải noi theo những giới luật của người Bồ-tát và chọn một cuộc sống phù hợp với sự tu tập giúp đạt đến giác ngộ.

Nhất định một số những người đọc quyển sách này không phải là những người tu tập Phật giáo. Một số những người Phật giáo có thể cũng cảm thấy không mong muốn phát nguyện Bồ-đề tâm, và đặc biệt bước vào phần thứ hai của nghi lễ. Nếu ta cảm thấy thiếu khả năng tuân theo giới luật của người Bồ-tát, ta không nên phát nguyên ; nhưng điều này cũng không cấm cản ta làm nảy sinh lòng thương người trong ta, và cầu xin hạnh phúc sẽ đến với tất cả những sinh linh có giác cảm, để ta có đủ khả năng đạt được giác ngộ toàn vẹn vì an vui của kể khác. Làm được như thế cũng đủ : ta sẽ rút tỉa được những điều xứng đáng qua hành vi phát lộ Bồ-đề tâm, nhưng không cần phải tuân theo giới luật. Nếu không phát nguyện, ta chỉ phát huy được lòng ước vọng về Bồ-đề tâm mà thôi. Tùy vào sự phán đoán của quý vị về việc này.

Khích lệ bởi lòng ước mong giải thoát cho mọi chúng sinh
Tôi xin nhất quyết 
Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng,
Cho đến khi nào đạt được giác ngộ toàn vẹn.

Thúc đẩy bởi trí tuệlòng từ bi,
Hôm nay đây trước mặt Phật,
Tôi xin được phát khởi tâm thức Giác ngộ,
Vì sự an vui của tất cả chúng sinh.

Khi nào không gian còn tiếp tục,
Khi nào chúng sinh còn hiện hữu,
Tôi van xin vẫn còn đây
Để làm tan biến tất cả khổ đau của thế giới này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5269)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5832)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7439)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6377)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5972)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4751)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5689)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5862)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6121)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6599)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5950)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7060)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6674)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4792)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4932)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7718)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9821)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7520)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5331)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6428)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5416)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5843)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6397)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5700)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6441)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7070)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6276)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10657)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6670)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6165)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6720)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6125)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6485)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5521)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8244)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5737)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7566)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6257)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9664)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4072)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6399)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4177)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4310)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4766)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5320)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5288)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5824)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6783)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5553)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4499)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5336)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 4998)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4360)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6877)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4615)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8415)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7220)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8370)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
(Xem: 7510)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
(Xem: 7573)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant