Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tại Sao Có Sanh Tử

22 Tháng Chín 201905:11(Xem: 4832)
Tại Sao Có Sanh Tử

TẠI SAO CÓ SANH TỬ 

Nguyễn Thế Đăng


Hết Củi Thì Lửa Tắt

Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo. Trong mười hai nhân duyên này, nguyên nhân khởi đầu là vô minh, từ đó có nguyên nhân chủ yếu của sanh là hữu (nguyên nhân thứ mười), tức là sự hiện hữu của ba cõi: dục giới, sắc giớivô sắc giới; và nguyên nhân chủ yếu của tử là sanh. Sanh tử là cái thứ mười một và mười hai trong Thập nhị nhân duyên, mà cái khởi đầu là vô minh. Từ vô minh sinh hành, hành sinh thức, thức sinh danh sắc… cho đến sanh và tử. Tóm lại sanh tử là do vô minh của tâm và những hoạt động của tâm vô minh đó.

Thế giới với vô vàn sự khác biệt giới hạn lẫn nhau, xung đột nhau, sanh diệt lẫn nhau, đó là cái chúng ta gọi là sanh tử. Sanh tử xuất hiện là do vô minh phân biệt, điều này kinh nói trong hầu hết các bài kệ:

Tự cho mình là nam
Thấy kia là người nữ
Do tâm phân biệt này
Mà sanh lòng ái dục
Lòng dục vô sở hữu
Tâm tướng bất khả đắc
Do vì vọng phân biệt…
(Nam tướng tam-muội)

Huân tập tánh sai biệt
Khởi lên các thứ nghiệp
Nghiệp cũng không có sanh
Tất cả chẳng chân thật…
(Long tướng tam-muội)

Kia do nơi danh tự
Theo thế tục an lập
Trong ấy không có pháp
Mà vọng khởi phân biệt.
(Ma-hầu-la tam-muội)

Trong ấy không tác giả
Do tự phân biệt sanh
Lúc ta ngồi đạo tràng
Biết tướng vô sanh này
vô tướng, vô sanh
Tánh ấy như hư không
Tướng ấy đều tịch tịnh…
(Địa ngục tướng tam-muội)

Nhưng phân biệt do đâu sanh? Sự phân biệt căn bản là sự phân biệt giữa tôi và những cái khác tôi, giữa cái của tôi và những cái của người khác. Sự phân biệt ban đầu là sự phân biệt giữa tôi và cái chẳng phải tôi. Sự phân biệt ấy là do lập nên một cách hư vọng một cái tôi giả tạo đối lập với người khác và với thế giới. Trong thực tại “không có pháp mà vọng khởi phân biệt”.

Trong thực tại không có thân “mà lấy vô thân làm thân”. Trong thực tại vô tác mà lấy “pháp vô tác làm tác”. Mọi việc làm, bám chấp, tham lam, sân giận, hy vọng và lo sợ… đều là việc làm với hư không, vô ích.

Phàm phu trong vô si
Hư vọng sanh tưởng si
Trong vô trước sanh trước
Như thắt nút hư không.
Lạ thay cho người ngu
Chẳng đáng làm mà làm
Các pháp đều chẳng có
Do nhiễm phân biệt sanh.
Như muốn nắm hư không
Giữ yên ở một chỗ
Dẫu trải ngàn vạn kiếp
Không hề tích tụ được.
Kẻ ngu từ xưa nay
Trải qua vô số kiếp
Vọng khởi thắt nút si
Như không chút phần tăng.
Như người nắm hư không
Không hề tăng hay giảm
Gom góp si nhiều kiếp
Không tăng giảm cũng vậy…

(Vô minh tướng tam-muội)

Cái gì khiến trong chỗ không có sự bám níu (trước) lại sanh bám níu? Cái gì muốn thắt nút hư không, muốn nắm giữ, gom tụ hư không mà không biết rằng hư không không hề tăng hay giảm?

Đó là sự chấp ngã hư vọng; sự chấp ngã này là sự thắt nút hư không. Nói theo Tám thức, thì thức chấp ngã là thức Mạt-na, với những sức mạnh của nó là ngã kiến, ngã ái, ngã si, ngã mạn. Vọng chấp vào một cái tôi, liền phân biệt giữa tôi và chẳng phải tôi, tôi và người khác, tôi và thế giới. Có một cái tôi, đó là sự phân biệt ban đầucăn bản; đó là si (vô minh).

Thức chấp ngã thứ bảy này chỉ huy, cai trị thức thứ sáu là ý thức và năm thức giác quan. Suy nghĩ là tôi suy nghĩ, cho tôi và vì tôi. Con mắt thấy, lỗ tai nghe là tôi thấy tôi nghe cho tôi và vì tôi. Thức Mạt-na chấp ngã này còn làm nhiễm ô thức căn bản là thức thứ tám A-lại-da bằng ý niệm tôi và cái của tôi.

Cái tôi hư giả do vọng lập đã phân chia thế giới thành tôi và cái chẳng phải tôi. Sự phân biệt, chia cắt ấy lan dần và thấm nhập toàn bộ tám thức để chia xẻ thực tại thành từng manh mún mà chúng ta gọi là sanh tử. Thức chấp ngã đã xé nát thực tại thành sanh tử. Nói xé nát chỉ là một cách nói, vì thực tại tánh Không không thể bị hư hoại, như Bát-nhã Tâm kinh nói, nó là “chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng dơ, chẳng sạch”. Hay nói theo cách nói của hệ Pali, “thực tại là Niết-bàn, Niết-bàn ấy không rộng thêm khi có ít người vào, không hẹp lại khi có rất nhiều người vào”.

Hai dòng lớn nhất của Đại thừaTrung quán hay Trung đạo của ngài Long ThọDuy thức của ngài Thế Thân đều nói cái đầu tiên và cuối cùng của Phật giáovô ngãvô pháp.

Nền tảng của Phật giáovô ngãvô pháp. Con đường hay phương pháp của Phật giáo là đi trong vô ngãvô pháp để thực hiện được vô ngã vô pháp. Và Quả là vô ngã vô pháp. Để thực hiện vô ngã vô pháp, Phật giáo có rất nhiều pháp môn, chẳng hạn như các tam-muội của tướng tham, sân, si, tướng các loại chúng sanh… trong kinh Pháp hội Văn-thù-sư-lợi Phổ môn này. Và ở đây, chúng ta chỉ nói về những pháp quán của kinh này để giải tan những vọng tưởng và vọng tướng đã tạo thành các cõi sanh tử.

Tại sao phải quán? Bởi vì hiện thời cái quán, cái thấy của chúng ta là do phân biệt, và chính sự quán thấy phân biệt sai lầm ấy tạo ra sanh tử hư vọng. Chúng ta phải phản quán trở lại để thấy thực tại đúng như nó là. Bởi vì do phân biệtchúng ta quán sát ngã và pháp có tự tánh, có thật. Cho nên chúng ta phải chánh quán trở lại để thấy ngã và pháp là không có tự tánh, không thật, như huyễn, như mộng. Do đó mà giải thoát khỏi mê lầm, giải thoát khỏi sanh tử do chúng ta hư vọng tạo nên.

Trong kinh thường nói quá trình tu tập là Văn, Tư, Tu. Văn là nghe giảng, đọc, nghiên cứu… Văn chỉ làm cho chúng ta thích thú, muốn tìm hiểu rộng hơn, sâu hơn. Tiếp theo là Tư, tư duy, suy nghĩ, phản biện, áp dụng cái đã nghe vào chính đời sống, thử nghiệm xem nó có đúng không. Khi thấy sự thật là như vậy, không thể sai khác, chúng ta mới có niềm tin vào Pháp để thực sự thực hành. Thứ ba là thực hành, Tu, đem những điều đã học, đã suy ngẫm và đã thử áp dụng vào thực hành thiền định, thiền quán. Có những kinh, như kinh Kim Cương, nói chỉ bốn câu kệ là đủ cho cả quá trình Văn, Tư, Tu. Vấn đềchúng ta phải chứng nghiệm nó, hiện thực hóa nó trong cuộc sống trần gian này.

Nhờ thiền định thiền quán theo định hướng nhất định, cộng thêm những yếu tố khác làm động lực như phát nguyện, làm công đức, tinh tấn, sùng mộ… những tấm màn chấp ngã chấp pháp được tháo gỡ. Cho đến một lúc những tấm màn che ấy đã thưa bớt, chúng ta chạm mặt, thấy trực tiếp tánh Không, mặc dầu chỉ thấy được một phần.

Sau đó, đã có sự xác quyết do chứng nghiệm sự thật là như vậy, chúng ta gỡ bỏ cho đến khi các che chướng hoàn toàn hết hẳn. Cái thấy, chánh kiến về tánh Không, ban đầu chỉ chiếm một phần trong cuộc đời chúng ta, sau đó trùm cả thân, tâm, thế giớichúng sanh. Có lẽ, khi cái thấy tánh Không bao trùm tất cả hiện hữu, chúng ta sẽ thấy tất cả là giải thoát, hay nói theo kinh điển, tất cả sanh tử là Niết-bàn.

Nguyễn Thế Đăng
Văn Hóa Phật Giáo Số 325 ngày 15-7-2019
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5832)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7439)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6377)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5972)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4751)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5689)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5862)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6121)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6599)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5951)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7060)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6676)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4794)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4932)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7718)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9821)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7521)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5331)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6428)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5416)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5843)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6397)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5700)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6441)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7070)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6276)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10657)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6671)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6165)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6721)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6125)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6486)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5521)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8244)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5737)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7566)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6258)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9664)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4072)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6399)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4178)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4310)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4768)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5320)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5289)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5824)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6783)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5553)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4499)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5336)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 4998)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4360)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6877)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4615)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8415)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7222)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8370)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
(Xem: 7510)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
(Xem: 7574)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
(Xem: 6110)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant