Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật Sử Dụng Thần Thông, Phép Lạ Như Thế Nào

29 Tháng Chín 201901:59(Xem: 6146)
Đức Phật Sử Dụng Thần Thông, Phép Lạ Như Thế Nào
Đức Phật Sử Dụng Thần Thông, Phép Lạ Như Thế Nào 

Liên Trí

Đức Phật Sử Dụng Thần Thông, Phép Lạ Như Thế Nào


Thái độ của Đức Phật đối với các loại thần thông

Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên những gì khác lạ với những hoạt động bình thường của con người đều có sức hấp dẫn. Do đó, hầu hết dân chúng đều ngưỡng mộ những người có khả năng thi triển biến hóa thần thông vì cho đó là những khả năng đặc biệt từ những người siêu xuất. Những phép mầu như ảo hóa, huyễn hoặc ấy có sức lôi cuốn mãnh liệt khó cưỡng. Không chỉ người cư sĩ tại gia bị cuốn vào trong các biến hóa thần thông này, mà đến cả người xuất giathời Phật, như Tỳ-kheo Sunakkhatta cũng có thái độ bất mãnphẫn nộtừ bỏ đời sống xuất gia, trở lui về đời sống thế tục chỉ vì ông chỉ trích Phật không có thần thông biến hóa (Đại kinh sư tử hốngTrung bộ kinh, số 12).

Thật ra, Đức Phật thành tựu đầy đủ tất cả các loại thần thông nhưng Ngài rất hạn chế trong việc sử dụng chúng như là một cách biểu diễn năng lực đặc biệt nhằm đáp ứng tâm lý tò mò, hiếu kỳvới điều lạ lùng, khác người của số đông dân chúng, vì Ngài thấy điều này không đem lại lợi íchthiết thực nào cả.

Trong những tình huống cần thiếtĐức Phật vẫn sử dụng thần thông, nhưng Ngài sử dụng rất hạn chế và dè dặt. Trong Tăng chi bộ kinh, chương Hai pháp, phẩm I, ghi lại rằng, Đức Phật, như người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại bàn tay đang duỗi ra, cũng vậy, biến mất ở Thắng Lâmhiện ra ở Đông Viên, theo lời yêu cầu của chư ThiênMột lần khác, Đức Phật trên con đường đến Kusinara, đi đến sông Hằng. Lúc bấy giờ sông Hằng tràn ngập nước đến bờ bên kia. Có người đang đi tìm thuyền, có người đang đi tìm phao, có người cột bè để đi qua bờ bên kiaThế Tôn mau lẹ như người lực sĩ co duỗi cánh tay, biến mất từ bờ bên này và hiện ra bờ bên kia với chúng Tỳ-kheo (Trường bộ kinh số 16: Kinh Đại bát Niết-bàn). Trong những trường hợpcần sự có mặt kịp thời của Đức Phật tại một nơi cách xa mà với cách di chuyển bình thườngNgài không thể đáp ứngĐức Phật không ngại sử dụng thần thông như một phương tiện. Trong khoảnh khắc co duỗi cánh tay của một người khỏe mạnh, Ngài đã có mặt ở nơi cần đến. Đây là lý do chính đáng để sử dụng thần thông biến hóa. Điều này đối với Ngài bình thường và đơn giản, như thể chúng ta sử dụng các phương tiện đi lại để phục vụ cho nhu cầu của mình. Khi nào không gấp gáp và đoạn đường gần, ta đi bộ. Khi khoảng cách xa, ta đi xe máy và với không gianxa nữa, ta đi ô tô, máy bay.

Không những Đức Phật mà các đệ tử dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Ngài cũng không lạm dụng việc thi triển thần thông. Có lần chư Tăng đến nhà gia chủ Citta thọ trai theo lời mời của gia chủ. Hôm đó, trời nóng gay gắtchư Tăng đổ mồ hôi “thân như bị chảy thành nước”. Trong lúc ấy, có vị Tỳ-kheo Mahaka mới tu chưa được bao lâu, liền dùng thần thông khiến cho có gió mát, có giông nổi lên và mưa bắt đầu rơi hạt, trời dịu mát. Rồi Tỳ-kheo trẻ này thưa vị Trưởng lãotrong chúng “như vậy là vừa rồi, bạch Trưởng lão” thì Trưởng lão ấy cũng xác nhận “như vậy là đủ rồi, cúng dường vậy là đủ rồi”. Sau đó, gia chủ Citta cảm kích năng lực thần thông của Tỳ-kheo Mahaka, mới theo về tịnh xá vị ấy ở, yêu cầu thi triển thần thông lần nữa cho gia chủ xem. Tỳ-kheo Mahaka bảo đem bó cỏ đặt trên một chiếc thượng y trong hành lang. Rồi Tôn giảMahaka vào trong tịnh xá, gài then cửa lại, thực hành thần thông lực khiến cho ngọn lửa phun ra từ lỗ ống khóa và giữa các khe cửa, đốt cháy cỏ nhưng không đốt cháy thượng yGia chủ Citta đập thượng y, hoảng hốt, lông tóc dựng ngược. Tỳ-kheo Mahaka, từ tịnh xá đi ra và nói với gia chủ Citta “thôi, như vậy là vừa rồi”. (Tương ưng bộ kinh, tập IV, chương XII, kinh số 4).

Như vậy, khi cần thiết, trong trường hợp này là lúc trời nóng quá, tạo nên sự khó chịu, không thể tập trung, ảnh hưởng đến sự thanh tịnh của chúng Tăng khi đang thọ thực tại nhà gia chủchư Tăng cũng có thể vận thần thông để đem lại sự mát mẻdễ chịu cho đại chúng. Trong một  trường hợp khác, khi gia chủ yêu cầu, để xác chứng kết quả tu tập của mình nhằm tạo niềm tinvào Tam bảo cho người mới tiếp cận giáo pháp, Ngài cũng cho phép chư Tăng thể hiện năng lựcthần thông. Tuy nhiên, người thi triển thần thông không sa đà vào đó mà dừng lại ở điểm “như vậy là đủ rồi”, vì kết quả tu tập của một hành giả đâu chỉ ở khả năng thi triển thần thông? Rất nhẹ nhàng, bức thông điệp Ngài trao gởi cho các đệ tử rằng, đây chỉ là phương tiện để tạo môi trường tốt nhất, tâm lý thoải mái nhất để chư Tăng thực hành và hướng dẫn Chánh pháp mà thôi. Quan điểm của Đức Phật rất rõ ràngnhất quán rằng chỉ thi triển thần thông khi thật sự cần thiết và chỉ để phục vụ cho việc hoằng pháp mà thôi.

Đức Phật không dùng thần thông để chiêu dụ người

Trong nhiệm vụ cảm hóa người khác bằng con đường giáo dụcchúng ta thấy Đức Phật đã lựa chọn một phương pháp rất đặc biệt, như được ghi chép trong kinh Kevaddha (Trường bộ kinh, số 11). Kevaddha yêu cầu Đức Phật dạy cho Tỳ-kheo hiện pháp thần thông để nhiếp phục dân chúng ở Nalanda. Thế Tôn từ chối không chấp nhận và dạy rằng trong ba pháp thần thông: Thần túc thôngTha tâm thông, và Giáo hóa thần thông, Ngài chỉ lựa chọn Giáo hóa thần thông, tức là chỉ sử dụng phép mầu của giáo dục để cảm hóa mọi người mà thôi. Trong quá trình thực hiệngiáo dục thần thông này, trong một số tình huống cần thiết, Ngài sử dụng các loại thần thông kia như những phương tiện hỗ trợ cho quá trình này diễn ra hiệu quả hơn.

Biến hóa thần thông và tha tâm thần thông là kết quả của sự tu tậpthực hành Chánh pháp, do vậy, Ngài dùng từ “thành tựu” khi nói về các loại thần thông này. Tuy nhiên, đây chưa phải là cứu cánh giải thoát, nên đừng để dính mắc vào sự thành tựu này mà chướng ngại trên đường tu tập. Vả lại, không vì khả năng hơn người này mà sử dụng tùy tiện với mục đích không cao thượng. Đoạn kinh trên là một hồi chuông cảnh tỉnh cho hàng đệ tử xuất gia của Phật, không sử dụngchiêu trò gì, dưới bất kỳ hình thức nào, để lôi kéo, thu hút dân chúng đến với mục đích cho đông đảo về số lượng. Nhiệm vụ của người xuất gia là thắp sáng tâm lành của người tu học Phật, đáp ứng nhu cầu học pháp và hành pháp cho người có duyên với Phật pháp, chứ không phải dùng các cách “đắc nhân tâm” không phù hợp với Chánh pháp chiêu dụ cho đông đảo người về với mình vì mục đích lợi dưỡngNếu không nhắc nhở mình, người hướng dẫn pháp dễ dàng đi lệch hướng và bị cuốn vào vòng xoáy danh lợi khi sống bao vây giữa sự cung kính và lợi dưỡng của dân chúng mà xa dần con đường thực hành và hướng dẫn nếp sống phạm hạnh.

Có tình huống Đức Phật tạm thời dùng thần thông trong một thời điểm nào đó đối với chúng sanh còn mê mờ chưa giác ngộ, nhưng đó chỉ là phương tiện để dắt dẫn đối tượng đến với sự thực hành giáo phápCâu chuyện về Tôn giả Nanda, một người em cùng cha khác mẹ với Đức Phật, cho chúng ta thấy Đức Phật dùng thần thông để đưa Nanda lên quan sát cõi trời, nhìn thấy các thiên nữ xinh đẹp để Nanda so sánh sắc đẹp của các thiên nữ với người vợ đẹp mới cưới của mình, rồi Đức Phật hứa sẽ cưới 500 thiên nữ xinh đẹp cho Nanda sau khi Nanda thực hànhphạm hạnh rốt ráothành tựu đạo quảRốt cuộc, trong quá trình thực hành pháp, cảm nhận được hạnh phúc tối thượng của đời sống giải thoát, không dính mắc, tự tại của người xuất giaphạm hạnh, Tôn giả Nanda đến Đức Phật xin hủy lời hứa trước kia (Chú giải Kinh Pháp cú). Ở đây, Đức Phật dùng thần thông để chiêu dụ Nanda đến với giáo pháp, nhưng đó chỉ là cái cớ để tạo duyên cho Nanda thực hành pháp và chứng nghiệm hạnh phúc giải thoát; đây mới là mục đích của Đức Phật vậy.

Dùng thần thông để có thể dễ dàng tiếp cận đối tượng

Đức Phật thường sử dụng các loại thần thông như là một phương tiện hỗ trợ cho công việc giáo hóa của Ngài được thuận tiện hơn và hiệu quả hơn. Cách Ngài sử dụng biến hóa thần thông và tha tâm thần thông trong các trường hợp đặc biệt được trình bày ở đây cho chúng ta hiểu rõ hơn về điều này. Trong  một số tình huống, Ngài dùng thần thông để có thể tiếp cận đối tượng cần giáo hóa một cách dễ dàng hơn, cụ thể nhất là trường hợp Đức Phật độ tướng cướp Angulimāla (Trung bộ kinh số 86: kinh Angulimāla; Trưởng lão tăng kệ, câu 866 đến 891). Khi cần thiết, Ngài dùng thần thông hiển lộ đầy đủ 32 tướng đại nhân để nhiếp phục một nhóm Bà-la-môn ngoại đạoquy ngưỡng Ngài và sẵn lòng tiếp nhận giáo pháp giải thoát (Trung bộ kinh số 91: kinh Brahmayu; kinh số 92: kinh Sela). Ta tìm hiểu kỹ hơn về trường hợp Ngài độ tướng cướp Angulimāla. Đây là một trong vài trường hợp hiếm hoi Đức Phật sử dụng biến hóa thần thông.

Để có thể tiếp cận với tướng cướp hung hãn này, Đức Phật chọn cách dùng đến thần thông là điều hợp lý nhất, vừa để kịp thời tiếp cận đối tượng, vừa tạo uy lực trước Angulimāla. Chính sự phi thường của Đức Phật bước đầu gây tò mò và thán phục đối với Angulimāla, để rồi từ đó, Đức Phật có khả năng cảm hóa tướng cướp bạo tàn này chịu dừng lại để có cuộc đối thoại với Ngài. Chính sự biến hóa thần thông của Đức Phật đã giúp tên cướp này thay đổi cách ứng xử. Angulimāla đã hành xử hoàn toàn khác với Đức Phật, thay vì với bao nhiêu người trước đó, hễ gặp mặt là tên cướp này liền giết một cách vô cảm, chặt ngón tay kết thành vòng hoa, rồi tiếp tụcđi tìm đối tượng khác để giết. Để tiếp cận một tên sát nhân máu lạnh như vậy, sử dụng biến hóa thần thông là điều vô cùng cần thiết và hợp lý

Thế nhưng, thần thông biến hóa này cũng chỉ được Đức Phật sử dụng rất hạn chế như một phương tiện để hỗ trợ quá trình cảm hóagiáo hóa và giúp người chuyển hóa, chứ không hề lạm dụngMục đích rốt ráocứu cánh của Đức Phật là đưa Angulimāla ra khỏi quỹ đạo sống tội lỗità kiến, mê si và đặt người này vào con đường thực hành Chánh phápĐức Phật đã tương kế tựu kế để có thể gởi bức thông điệp có tác dụng đánh động mạnh mẽ tâm thức của Angulimāla bằng câu nói “Ta đã dừng từ lâu; còn ngươi thì chưa dừng”. Đức Phật đã thành công trong việc cho người bệnh nặng uống thuốc bằng cách “cho ăn kẹo trước, bảo uống thuốc sau”; trước Ngài thể hiện thần thông, nhằm thỏa mãn lòng ham muốn hiếu kỳ của tướng cướp này, sau Ngài dùng tâm từ bi và trí tuệ để nhiếp phục Angulimāla. Nhìn cả quá trình cảm hóa này, ta thấy nhờ những lời khai tâm mở trí của Đức Phật đúng thời điểm mà một tướng cướp khát máu đã trở thành một vị Tỳ-kheo mẫu mực trong Tăng đoàn. Đây là gì mà không phải giáo hóa thần thông?

Trong suốt cuộc đời giáo hóa chúng sanh với mục đích giúp người chuyển mê khai ngộĐức Phật chỉ chú trọng đến giáo hóa thần thông, còn biến hóa thần thông và tha tâm thần thông, Ngài cho rằng đó là sự huyễn hóa, nguy hại và vô ích, đưa đến nhiều nguy hiểm nếu lạm dụng chúng (Tăng chi bộ kinh, chương Ba pháp, phẩm VI, kinh 60).

Thế nhưng, nếu biết kết hợp và sử dụng đúng lúc, có chừng mực thì những khả năng thần thông này có thể hỗ trợ hiệu quả trong quá trình giáo hóa, giúp người khai tâm mở trí và Đức Phật rất thành công khi làm như vậy.

Liên Trí

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9986)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7094)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7333)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6990)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9357)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5838)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7101)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6522)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6100)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7162)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14386)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20436)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9473)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7870)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8185)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7451)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9375)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7447)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7480)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7667)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9474)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8781)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7374)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7957)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7012)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7670)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9860)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8284)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8836)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7671)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8825)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8630)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 8002)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9011)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9429)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8739)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8880)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7226)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9185)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8602)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7891)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9621)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10173)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8770)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8381)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7630)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9333)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7479)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15352)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7301)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8479)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12240)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7303)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11494)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8316)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8042)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7907)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8920)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(Xem: 7411)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
(Xem: 18179)
“Ăn Cơm Hương Tích, uống Trà Tào Khê, ngồi Thuyền Bát Nhã, ngắm Trăng Lăng Già”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant