Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vị Sa-môn Khất Sĩ

08 Tháng Mười 201903:18(Xem: 5404)
Vị Sa-môn Khất Sĩ

VỊ SA-MÔN KHẤT SĨ

Trần Tuấn Mẫn

An Cư Và Mãn Hạ


I. Khái quát

Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo. Đối với một người theo đạo Phật, Đức Phật là vị Sa-môn đầu tiên, được gọi là vị Đại Sa-môn (Mahasamana). Hình ảnh Đức Thế Tôn thường được minh họa bằng tranh tượng với hình ảnh Ngài mang bình bát khất thực, mặc y hoại sắc, chân trần, rất đơn giản, rất nghiêm trang, thong dong, tự tại. Ngài khai sáng Phật giáo, lập Tăng đoàn Tỳ-kheo và đệ tử của Ngài được gọi là Sa-môn Thích tử (Sakyaputtaya Samana).

Thực ra, Sa-môn, Tỳ-kheo hay Bí-sô vốn có ý nghĩa giống nhau, nhằm chỉ những vị tu sĩ rời bỏ gia đình, sống nghèo nànkhất thực qua ngày. Người ta tìm thấy hình ảnh những vị này thấp thoáng trong vài bộ Áo nghĩa thư (Upanisad) được soạn khoảng sáu, bảy thế kỷ trước Tây lịch. Đếm ra có được 17 bộ trong 108 bộ Upanisad có nói đến việc từ bỏ đời thường (Sannyasa), đó là những vị tu sĩ được gọi là Bhikkhu, Sanyasin, Avahate, Paramahamsa. Sukumar Dutt trong Buddhist Monks and Monasteries of India (London, 1962) nêu dẫn thêm: “Những người biết đến Phạm thiên, từ bỏ ham muốn về con cái, giàu sang, của cảitrở thành Khất sĩ (Bhisacaryam Caranti)”.

Ông giải thích thêm một số từ trong Upanisad: Sannyasin là người loại bỏ mọi sự đời; Parivarajaka là người lang thang, không nhà cửa, không bà con thân thuộc; Bhiksu hay Bhikkhu (Bìsô, Tỳ-kheo) là những người không sở hữu, sống bằng khất thực. Vị ẩn sĩ, Khất sĩ còn được gọi là Sadhu (trong Ấn giáo), Sufi (trong Hồi giáo). Tuy vậy, giáo lý Phệ-đà (Veda) hay Bà-la-môn thời ấy không hề nhắc đến lối tu hành khổ hạnh, từ bỏ vật chất, sống nghèo khổ, khất thực để được thể nhập với Đại ngã. Do đó, có người cho rằng số bộ Upanisad nêu trên có thể được viết sau thời Phật giáo. Mặt khác, trong thời Đức Phật cũng có nhiều vị Sa-môn, Ba-lamôn không phải Phật giáo, được nổi tiếng như Pakadha Kaccayana, Sanjaya Belatthiputta, Nigantha Nathaputta (xem Trường bộ kinh, kinh Đại Bát Niết-bàn, số 16).

Ở châu Âu thời Trung cổ, nhiều thầy dòng Thiên Chúa giáo nghĩ rằng Chúa Jesus giáng sinh trong máng cỏ, sống trong gia đình nghèo khổ, nên các vị ấy chủ trương sống nghèo khổ, từ chối của cải vật chất, sống gần gũi người nghèo, sống bằng khất thực. Rất nhiều dòng tu theo chủ trương này được thành lập: dòng Franciscain, dòng Camelite, dòng Dominicain, dòng Augustinian… Điển hình là Thánh François d’Assise (1182- 1226), thuộc gia đình đại phú, con của một đại thương gia, đã chọn lối sống nghèo khổ, cùng các vị đồng tu đi khất thực. Nói chung, đây là những thầy thuộc dòng Khất sĩ (Mendicants Friars)…

Trong khi đó, vị Sa-môn hay Tỳ kheo của Phật giáo có nhiều nét nổi bật về giáo lý, về giáo luật, về phương pháp tu hành mang nhiều ý nghĩa về ba lĩnh vực này.

II. Minh họa vị Sa-môn Khất sĩ của Phật giáo

Thực ra, như trên đã nói, Sa-môn nghĩa là Sa-môn Khất sĩ, nghèo nàn, giản dị, tách biệt với đời, lang thang đây đó. Phong thái nhẹ nhàng của vị Sa-môn hay Tỳ-kheo Khất sĩ đơn độc du hành được miêu tả qua bài kệ của vị Đại sư Trung Hoa, Bố Đại Hòa thượng (布 袋和尚):

Nhất bát thiên gia phạn,
Cô thân vạn lý du,
Thanh mục đổ nhân thiểu,
Vấn lộ bạch vân đầu
.

Nguyên văn chữ Hán: 一钵千家饭, 孤身万里游。 睹人青眼在, 问路白云头.

Dịch nghĩa:
Một bát cơm ngàn nhà,
Đơn thân vạn dặm xa,
Mắt xanh người nhìn ít
Hỏi đường mây trắng qua.

Bài kệ thi vị và đầy thiền vị trên chỉ là sự minh họa về hình ảnh vị Sa-môn khất thực. Tuy nhiên, ý nghĩa bên trong của việc khất thực quan trọng hơn nhiều. Kinh Sa-môn quả (Trường bộ) ghi lời Đức Phật về một vị Sa-môn: Cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà-sa, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia tu đạo. Sau khi xuất gia như vậy, người ấy sống chế ngự thân, chế ngự lời nói, chế ngự ý nghĩ, bằng lòng với nhu cầu tối thiểu về ăn uống, y áo, hoan hỷ sống trong an tịnh”.

Kinh Pháp tập nêu lời dạy của Đức Phật khi Ngài đi khất thực:
1. Không tham đắm vị ngon,
2. Phá trừ ngã mạn,
3. Từ bi, bình đẳng, gây lợi ích cho chúng sinh.

Không tham đắm vị ngon nghĩa là không tham ái, thích các món ăn ngon, và dĩ nhiên là không tham đắm vào những cảm thọ, vào “tôi và của tôi”; phá trừ ngã mạn là từ tốn, hiền hòa, không cho mình là giỏi là hay hơn người; từ bi, bình đẳng, gây lợi ích cho chúng sinh là đến với mọi người, mọi nhà, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, địa vị xã hội, đến để giảng pháp, để tạo điều kiện cho mọi người làm công đức, biết gạt bỏ bớt những gì là “tôi và của tôi”…

Kinh Bảo ngũ nêu mười điều mà vị Sa-môn Bồ-tát phải ghi nhớ khi đi khất thực:
1. Nhiếp thụ các loài hữu tình,
2. Khất thực theo thứ lớp, không phân biệt giàu nghèo,
3. Không mệt mỏi, không nhàm chán việc khất thực,
4. Biết đủ, cụ thể là không khất thực thật nhiều, mong được món ngon hơn,
5. Phân chia thức ăn đã nhận được làm bốn phần: để ăn, để chia cho các vị đồng tu, cho người bần cùng, và cho chúng sinh trong đường ác,
6. Không tham luyến thức ăn,
7. Ăn vừa đủ để có sức khỏe,
8. Thể hiện các phẩm chất tốt
9. Phát triển thiện căn,
10. Lìa bỏ ngã chấp.

Kinh Đại bảo tích ghi lời Phật dạy Tôn giả Đại Ca diếp về việc khất thực của Tỳ-kheo, đại ý như sau: Vị Tỳ-kheo Khất sĩ phải giữ bốn thệ nguyện: không dua vạy, không yêu cầu được cho thức ăn, không nhờ Tăng chúng cho ăn, luôn giữ oai nghiêm. Khi khất thực, Tỳkheo không quan tâm đến vị ngon hay dở, khất thực theo thứ tự từng nhà, không quan tâm đến người cúng dườngthức ăn cúng dường; nếu không khất thực được gì thì cũng không buồn phiền; vì bệnh mà không đi khất thực được thì nên nghĩ rằng mình sống cô độc, Chánh pháp là bạn, nên suy gẫm Chánh phápthực hành thiền định; mưa bão lũ lụt lâu ngày không đi khất thực được, phải chịu đói thì nên an trú trong từ tâm, nghĩ rằng các chúng sanh mang nghiệp ác phải sinh vào đường ác và phải chịu đói khổ hàng trăm năm chứ không chỉ đói vài ngày như mình.

Trong kinh Duy-ma-cật có đoạn: “Dù không ăn mà vẫn đi khất thực, dù phá tướng hòa hợp mà vẫn bốc cơm ăn, dù không muốn nhận mà vẫn nhận món ăn của người, dù nghĩ rằng không có làng xóm mà vẫn vào làng xóm, thấy sắc mà như người mù, nghe tiếng mà như nghe tiếng vang, ngửi mùi mà như gió thổi, nếm vị mà không phân biệt, xúc chạm vật mà như thể hiện trí tuệ, biết các pháp là huyễn ảo, vô tự tính, vô tha tính”.

Ngài Duy-ma-cật còn nói: “Đối với cơm bình đẳng thì các pháp cũng bình đẳng, các pháp bình đẳng thì cơm cũng bình đẳng”.

Kinh Tăng nhất A-hàm quyển 47sách Tỳ-ni thảo yếu quyển 6 ghi rằng khi đi khất thực, Tỳ-kheo phải đi dọc hai bên đường, tay trái ôm bát, theo thứ lớp mà khất thực, không để ý thức ăn ngon hay dở, chỉ nhằm nuôi dưỡng mạng sống, nuôi dưỡng khí lực.

Các kinh trên đã nêu khá đủ về thái độ, tác phong đạo đức của vị Tỳ-kheo Khất sĩ. Vị Tỳ-kheo còn nhắm đến lợi ích cho chúng sanh. Đó là: Tạo duyên cho người ta bố thí, quên  “ta và của ta”, được nhiễm gương sáng về phong cách đạo hạnh của vị Tỳ-kheo, được thấm nhuần Phật pháp, ưa thích đời sống giản dị, thanh bần.

Đi khất thực là một phương cách để tu dưỡng, để độ sinh. Để tránh bị hiểu lầm về phẩm hạnh của Sa-môn và để ngăn ngừa sự nhiễm ô đối với những vị còn sơ cơ trên bước đường tu, luận Hiển dương Thánh giáo nêu năm nơi mà vị Sa-môn không nên đến khất thực: nơi vui chơi ca hát, nơi mua bán dâm, nơi bán rượu, nơi cung đình và nơi giết hại, buôn bán súc vật.

III. Đôi lời bàn luận

Đã hơn 25 thế kỷ qua kể từ thời Đức Phật, hình ảnh vị Tỳ-kheo hàng ngày đi khất thực vẫn tồn tại ở nhiều quốc gia châu Á. Hoàn cảnh sinh hoạt của Phật giáo thay đổi theo thời gian. Thời đại mới của khoa học và kỹ thuật ảnh hưởng lớn đến thể cách hành đạo nhưng tinh thần của truyền thống khất thực vẫn không mất đi, kể cả đối với Phật giáo Nguyên thủyPhật giáo Đại thừa: Nhà chùa nói chung vẫn giữ nếp thanh bần và vị Tỳ-kheo vẫn giữ cốt cách giản dị, không lưu giữ tiền bạc, của cải. Các Tỳ-kheo của Phật giáo Đại thừa hoặc Nguyên thủy tuy đã hạn chế nhiều hoặc ngưng hẳn việc khất thực hàng ngày nhưng để giữ gìn ý nghĩa khất thực, mỗi Tỳ-kheo đều có y bát riêng, sử dụng trong các buổi trai phạn suốt ba tháng an cư kiết hạ mỗi năm.

Ngày nay, theo đà văn minh của nhân loại, nhiều vấn đề xã hội, kinh tế, chính trị, đạo đức, môi sinh… nổi lên. J.J. Rousseau có thể rất đúng khi viết cuốn sách Contrat Social (Khế ước Xã hội) rằng xã hội càng văn minh thì đạo đứchạnh phúc của con người càng bị suy giảm. Do đó mà Phật giáo cần phát triển, hoằng pháp cần mở rộng cũng như nhiều tổ chức, nhiều tôn giáo khác nhằm giúp con người sống hạnh phúc, an bình. Do đó mà chùa chiền được xây dựng, trùng tu để quy tụ Phật tử, giúp họ đến với nếp sống hiền hòa của đạo Phật.

Đã có nhiều tự viện từ thời Đức Phật và càng lúc càng nhiều ở khắp nơi theo với thời gian. Điều này thật đáng mừng, đáng trân trọng. Nhưng cũng cần nhớ rằng đây là vì lòng mến mộ Phật giáo mà các thí chủ, gồm các vua chúa, hoàng gia, chính khách, đại gia… tự nguyện đứng ra thiết lập tự viện chứ các Tỳ-kheo không yêu cầu. Các thí chủ không vì mục đích chính trị hoặc kinh doanh, thu lợi nhuận bằng nhiều hình thức hoặc quảng cáo cho mình. Thỉnh thoảng người ta thấy có vị Tỳ-kheo kêu gọi chư tôn đức hay Phật tử xây chùa hay tu sửa chùa cho mình, hay đề nghị Phật tử mua sắm một số phương tiện sinh hoạt cho cá nhân mình. Điều này cũng như vị Sa môn Khất sĩ yêu cầu được cúng dường thức ăn, vật dụng cho mình. Như thế là phạm luật khất thực, phạm ý nghĩa thanh bần, điều mà Đức Phật ngăn cấm.

Mong sao. Tinh thần Sa-môn Khất sĩ vẫn được mãi mãi tồn tại trong Tăng-già tại các khắp tự viện Phật giáo trên thế giới.

Tài liệu tham khảo:
- Kinh Trường bộ (Đại bát Niết-bàn, Sa-môn quả); Kinh A-hàm, q.7; Kinh Bảo ngũ; Kinh An lạc; Kinh Duy-ma-cật; Tỳ-ni thảo yếu q.6; Luận Hiển dương Thánh giáo.
- Dukuma Dutt, Buddhist Monks and Monasteries of India, G. Allen & Unwin, London, 1962.
- Thích Chơn Thiện, Tăng-già thời Đức Phật, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, 2000.
- Trần Tuấn Mẫn, Vấn đáp Phật giáo, Nxb Lao Động, Hà Nội, 2017.
- M.W. McLeod, The Way of the Mendicant.
- Hạnh Chơn, Truyền thống Khất thực, thuvienhoasen.org.
- Pháp Vương Tử, Khất thực
- một phép tu truyền thống của đạo Phật, phatgiao.org.vn.

 

Trần Tuấn Mẫn | Văn Hóa Phật Giáo Số 328 ngày 1-9-2019
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10111)
Phật giáo vào Anh quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ 19, qua các công trình dịch thuật kinh điển ở các nước Phật giáo Đông phương.
(Xem: 18509)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 14507)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 8805)
Nói đến “Tính Không” trong Đạo Phật là nói đến một vấn đề mà nhiều người còn thắc mắc, nhất là những người ngoại đạo...
(Xem: 8909)
Phẩm Quán Tứ đế của Trung luận, từ chỗ duyên khởi tức là không, cũng là giả danh về sau, tiếp theo nói: cũng là trung đạo.
(Xem: 8194)
Triết học Phật giáo Đại thừa có hai phương diện, đó là Triết học Phật giáo Đại thừa hay Tánh không luận và Du-già hành tông hay trường phái Duy thức...
(Xem: 8991)
Không là pháp quán chung của Phật giáo, nhưng pháp quán của các nhà Trung Quán không giống với pháp quán của các tông phái khác.
(Xem: 14149)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 8437)
Niệm tức là nghĩ nhớ, ức niệm, suy tưởng, chú tâm quan sát hay hướng tâm đến một đối tượng nào đó thuộc tâm thức và giữ cho đối tượng đó luôn luôn sinh động ở trong tâm...
(Xem: 15262)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13129)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 7803)
"Các thầy Tỷ kheo sau khi ta diệt độ, các thầy phải trân trọng, tôn kính tịnh giới, như người mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc..."
(Xem: 16633)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15496)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 8976)
Chấp nhận một hình thức Phật giáo rồi dấn thân bằng thực nghiệm, hành giả không cần phải dành quá nhiều công sức cho những vấn đề lý thuyết và những mục tiêu lý tưởng của các truyền thống khác nhau.
(Xem: 7925)
Pháp môn Tịnh độ được sáng lậptu hành dựa trên tư tưởng “Yếm ly Ta bà, hân cầu Cực Lạc”. Song vì sao phải yếm ly Ta bà và lại hân cầu Cực Lạc?
(Xem: 7087)
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận giải Nobel Hòa Bình 21 năm trước, ngài nói, "Tôi chỉ là một thầy tu giản dị".
(Xem: 11250)
Đạo Phậtđạo nhân quả (nhân nào quả nấy) trên cơ sở lấy “Tâm” làm gốc và được ứng dụng vào trong cuộc sống.
(Xem: 14243)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 10453)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20445)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 8776)
"Các người phải siêng năng tu tập các điều thiện, nhờ tu tập điều thiện mà được mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm tươi, sống yên ổn, vui vẻ, của cải dồi dào, uy tín đầy đủ"
(Xem: 9269)
Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành...
(Xem: 24090)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12632)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 7800)
Giải quyết vấn đề thoát khổ, Đạo Phật lấy tâm thức của con người làm trọng tâm, bất cứ hệ tư tưởng Phật giáo nào nếu tách rời tâm thức của con người thì Phật giáo không còn đất đứng.
(Xem: 16220)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle...
(Xem: 15574)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 8721)
Indriya có nghĩa là căn, gốc, khả năng, làm chủ, cốt yếu... Bala là lực, là sức mạnh. Vậy ngũ căn là 5 trạng thái tâm căn bản, 5 yếu tố tâm lý căn bản có khả năng kiểm soát tâm, làm chủ tâm.
(Xem: 7634)
Nghiệp là một luật rất công bằng cho tất cả mọi loài, mình tạo thì mình hưởng. Làm phước được phước, làm tội chịu tội.
(Xem: 14596)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 9284)
"Vô Ngã" là vấn đề tương đối hơi khó và khiến cho nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật phải tốn nhiều công sức để truy cứu, tìm hiểu.
(Xem: 15481)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 15132)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16602)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 13457)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 15308)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 7823)
Tất cả đều được tiếp nối dưới một hình thức này hay một hình thức khác. Đám mây luân hồi ra thành cơn mưa và cơn mưa luân hồi ra thành ra nước trà.
(Xem: 7482)
Đức Phật trong thực tế đã không đưa ra các nghi thức và các nghi lễchúng ta đang thực hiện ngày hôm nay, Ngài cũng không vì vấn đề nghi thứcnghi lễ mà khuyến khích dân chúng...
(Xem: 7332)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu.
(Xem: 9004)
"Tôi nhất định phục hưng Chánh Pháp. Tôi chỉ cho phép Phật GiáoChánh Pháp chứ không có Mạt Pháp! Bất cứ nơi nào tôi đến, nơi đó sẽ có phước đức, trí huệ và được giảm bớt tai ương."
(Xem: 14002)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 8013)
Mục đích của bài viết này là để hổ trợ trong việc gia tăng sự hiểu biết tốt hơn về tôn giáo, sự khoan dungý nghĩa sâu sắc của các tôn giáo khác từ quan điểm của Phật giáo...
(Xem: 7837)
Dường như trong Kinh Tạng ít nhất có hai lần nhắc đến trường hợp Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn...
(Xem: 15787)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10256)
Chúng ta luôn bị bất an, lòng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sinh mạng, quyền lợi, địa vị, vợ con, tiếng tăm, của cải… của mình bị thương tổn hay bị đe dọa.
(Xem: 7676)
Đạo Phật chủ trương trong hiện tại phải sống giải thoát cho chính mình và giúp đỡ mọi người vượt qua nỗi khổ niềm đau để đạt được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
(Xem: 7487)
Trung-quán-luận hay Trung-quán Ngâm khúc (Madhyamaka-káriká) là một tập thơ của Nàgàrjuna để giảng Giáo lý của đức Phật.
(Xem: 12764)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 7846)
Các thí dụ trình bày trong bản kinh này đều gần gũi với sự vật, hiện tượng xảy ra, liên hệ trực tiếp đến đời sống con nguời.
(Xem: 8086)
Bài chuyển ngữ dưới đây sẽ tiếp tục đưa chúng ta bước vào một thế giới khác của vấn đề này liên quan đến các hiểu biết khoa học tân tiến ngày nay.
(Xem: 13968)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 7271)
Tổ Chức Y Tế Thế Giới (OMS / WHO) định nghĩa sức khoẻ là một "thể dạng an vui toàn diện, từ thể xác đến tâm thần và cả cuộc sống trong xã hội
(Xem: 9176)
Trong Thiện kiến tì-bà-sa cũng có thuyết này, nhưng vì độ người nữ xuất gia nên tổn chính pháp năm trăm năm.
(Xem: 9639)
“Sắc tức là không, không tức là sắc” được trích ra từ kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đã được tinh giản, công thức hóa và xem như một thành ngữ.
(Xem: 13071)
Hiện nay Phật giáo có tiếng nói vô cùng quan trọng đối với Liên hiệp quốc, vì đã đánh thức được lương tri, lương tâm con người.
(Xem: 7573)
Nếu không có ngã, sự liên quan giữa một hành nghiệp và kết quả của nó là điều không thể có, vì nếu tác giả của một hành nghiệp chết, ai sẽ có kết quả?
(Xem: 10121)
Chúng ta lễ lạy để tịnh hóa mọi tình huống trong quá khứ khi ta không kính trọng người khác... Nguyên tác: Lạt Ma Gendyn Rinpoche; Liên Hoa dịch Việt
(Xem: 7183)
Sau khi Đức Phật diệt độ, Tôn giả Maha Kassapa đã triệu tập 500 vị A-la-hán vân tập tại thành Rājagaha để kiết tập kinh điển... Chúc Phú
(Xem: 30873)
Tăng đoàn bắt đầu hoạt động rộng rãi và có ảnh hưởng kể từ khi Phật niết bàn... Thích Nữ Trí Nguyệt dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant