Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tìm Hiểu Ý Nghĩa Bài Kinh "thanh Tịnh" Trích Trong Kinh Tăng Chi Bộ

09 Tháng Mười 201903:24(Xem: 6385)
Tìm Hiểu Ý Nghĩa Bài Kinh "thanh Tịnh" Trích Trong Kinh Tăng Chi Bộ

Tìm hiểu ý nghĩa bài kinh "THANH TỊNH"
trích trong Kinh Tăng Chi Bộ

Thích Nữ Hằng Như

Tìm hiểu ý nghĩa bài kinh

          Bài kinh "Thanh Tịnh"bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế. Bài kinh được ghi lại trong Kinh Tăng Chi Bộ, Chương 3, phẩm Đọa Xứ.Trước khi vào đề mục chính, chúng tôi giới thiệu khái quát về "Kinh Tăng Chi Bộ" này.

          Kinh Tăng Chi Bộ, tiếng Phạn là Anguttara Nikàya là bộ thứ Tư trong 5 bộ kinh tạng Pali:

          1) Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya): 3 tập gồm 34 bài kinh

          2) Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya): 3 tập gồm 152 bài kinh.

          3) Kinh Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya): 5 tập gồm 2,958 bài kinh.

          4) Kinh Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikàya): 3 tập gồm 9,557 bài kinh

          5) Kinh Tiểu Bộ (Khuddaka Nikàya): 15 tập.

          Tổng cộng 12,601 bài pháp thoại, chưa tính Kinh Tiểu Bộ gồm 15 tập. Kinh Tiểu Bộ không đếm được con số chính xác, vì Bộ Kinh này tập hợp nhiều thể loại với nhiều nội dung khác nhau.

          Thí dụ như "Kinh Pháp Cú" (Dhammapada) được ghi lại trong tập số Hai, gồm 423 bài kệ,  là tập kinh rất phổ biếntính cách cô đọng của giáo lý Phật Đà qua những bài kệ ngắn gọn làm nền tảng cho nếp sống đạo.

          Ngoài ra, những tập khác kể chuyện tiền thân của Đức Phật, chuyện về 24 vị cổ Phật, từ Phật Dipankara (Nhiên Đăng) đến Phật Kassapa (Ca-Diếp). Tập số 6 mô tả cảnh huy hoàng rực rỡThiên cung. Tập số 7 mô tả cảnh giới khổ đau của chúng Ngạ quỷ. Tập số 8 và số 9 đăng lại các bài thi kệ do chư vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-Ni cảm tác qua đời sống tu tập của các Ngài trong thời Phật còn tại thế v.v...

         

          Bên cạnh tạng kinh Nikàya, gốc từ tiếng Pali. Còn có tạng kinh Àgamma (A-hàm), gốc từ tiếng Sanskrit.

          Kinh A-hàm gồm 4 bộ được chư Hoà thượng Thích Thanh Từ, Thích Tuệ Sỹ, Thích Đức Thắng... dịch sang Việt ngữ như:

          1) Kinh Trường A-hàm: HT. Thích Tuệ Sỹ dịch; 30 bài kinh.

          2) Kinh Trung A-hàm: HT. Thích Tuệ Sỹ dịch; 222 bài kinh.

          3) Kinh: Tạp A-hàm: HT. Thích Đức Thắng dịch, 1,362 tiểu kinh.

          4) Kinh Tăng Nhất A-hàm: HT. Thích Thanh Từ dịch, 472 bài kinh.

                    Tổng cộng bộ A-hàm có 2,086 bài kinh.

          Trở lại Kinh Tăng Chi Bộ, là bộ kinh cung cấp những bài giảng ngắn gọn của Đức Phật, bao gồm những điểm quan trọng về đạo đứcTâm lý học Phật giáo liên quan tới pháp học và pháp hành.

          Bộ kinh này được cố đại lão Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch từ tạng Pali sang Việt ngữ. Bộ kinh chứa 9,557 bài kinh ngắn được chia thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương gồm nhiều phẩm (vaggas). Trong mỗi phẩm lại có nhiều bài kinh ngắn, được xếp theo pháp số thứ tự từ nhỏ (1 pháp số) đến lớn dần (11 pháp số). Thí dụ như chương Một, thì những bài kinh diễn đạt về một pháp (Eka Nipàta). Chương Hai, bao gồm những phẩm thuộc các bài kinh diễn đạt về hai pháp (Duka Nipàta)... và tuần tự như thế đến pháp Mười Một (Ekàdasaka Nipàta) thì có tới mười một pháp là chương cuối cùng.

          Do từ pháp số 1 tăng dần lên đến pháp số 11, nên Bộ kinh có tên là "Tăng Chi" nghĩa là "tăng lên từng pháp số".

          Hôm nay chúng tôi chọn bài kinh ngắn nói về "Thanh Tịnh" bài kinh tuy ngắn nhưng rất quan trọng trên con đường tu tập của chúng ta. Bài kinh này là bài số 118. Trong kinh ghi là: Thanh Tịnh (1). Tiếp theo là bài số 119 trong kinh ghi là Thanh Tịnh (2). Cả hai bài kinh này thuộc "Phẩm Đọa Xứ" nằm trong Chương Ba, tức chương đặc biệt nói về ba pháp tu tập được chọn đăng trong Tăng Chi Bộ Kinh.

         

          I. NGUYÊN VĂN KINH:

          118-Thanh Tịnh (1)

          - Này các Tỷ-kheo, có ba thanh tịnh này. Thế nào là ba? Thân thanh tịnh, lời nói thanh tịnh, ý thanh tịnh.

          Thế nào là thân thanh tịnh?

          Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, này các Tỷ-kheo, đây gọi là thân thanh tịnh.

          Và này các Tỷ-kheo, thế nào là lời nói thanh tịnh?

          Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là lời nói thanh tịnh.

          Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ý thanh tịnh?

          Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người không có tham lam, với tâm không sân hận, có chánh tri kiến. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là ý thanh tịnh.

          Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba thanh tịnh.

         

          II. TÌM HIỂU:

          - Tỷ-kheo: Tỷ-kheo là chữ dịch theo âm của tiếng Phạn là Bhikhu chỉ nam tu sĩ Phật giáo. Tỷ-kheo-ni dịch theo âm Bhikhuni chỉ nữ tu Phật giáo. Ngày nay các vị mới xuất gia thọ 10 giới gọi là Sa-di hay Sa-di-ni. Sau một thời gian tu tập, thọ Cụ Túc Giới, tăng 250 giới, ni 348 giới mới gọi là Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni.

          - Thanh tịnh: Nghĩa là trong sạch, không ô uế, dơ bẩn.

          - Ba thanh tịnh: Gồm thân thanh tịnh, lời nói thanh tịnhý thanh tịnh.     

          - Thân thanh tịnh: Người nào sống ở đời không sát sanh giết người, giết vật, không trộm cắp lấy của không cho, không tà dâm xâm phạm tiết hạnh người khác...  Đức Phật nói rằng người đó giữ được "thân thanh tịnh".

          - Lời nói thanh tịnh: Người nào từ bỏ nói láo, tức khi nói thì nói đúng sự thật không thêm không bớt. Không nói hai lưỡi, tức không nói hai chiều gây chia rẽ thù oán giữa người này với người kia. Không nói những lời hung dữ, ác độc làm đau lòng người khác. Ngoài ra cũng không nói những chuyện phù phiếm cợt nhã trên trời dưới đất vô ích.

          Những lời nói láo, nói hai lưỡi, nói hung dữ hay nói phù phiếm bây giờ người ta gọi chung là Vọng ngữ. Xa lìa Vọng ngữ nói lời chân thật, dịu dàng, từ ái có lợi cho mình cho người, thì người đó giữ được "lời nói thanh tịnh".

          - Ý thanh tịnh: Người có tâm không tham lam, không sân hận và có Chánh tri kiến. Người có Chánh tri kiến là người nhìn thấy sự kiện một cách đúng đắn, biết rõ chánh, tà, hiểu rõ lời Phật dạy, giữ tâm ý trong sạch là người giữ được "Ý thanh tịnh". Ngược lại là "tri kiến điên đảo", huân tập tư tưởng tham, sân, si, mạn, nghi tà kiến... tạo nghiệp.

 

          III. KHAI TRIỂN ĐỜI SỐNG THANH TỊNH CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ

          Là người Phật tử khi quy y Tam Bảo sẽ được trao truyền năm giới: không sát sanh, không trộm cướp, không vọng ngữ, không tà dâm, không dùng chất say, nghiện. Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm là các giới thuộc về thân. Không vọng ngữ là giới thuộc về lời. Không uống rượu, hay xử dụng các chất ghiền nghiện (xì-ke, ma tuý) là giới thuộc về ý. Nếu người Phật tử giữ được các giới này thì được xem như thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Trong nhà Phật thường nhắc tới từ "ba nghiệp thanh tịnh". Nghĩa là không tạo nghiệp xấu ác qua hành động, lời nói và trong ý nghĩ.

          Là người cư sĩ sống ngoài đời, có gia đình, cha mẹ, vợ, chồng, con cái nên còn nhiều trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội, nên khó tránh những xung đột, va chạm với người xung quanh khiến cho bản thân mình phải chịu ít nhiều những bức xúc, phiền não, khổ đau...

          Đức Phật dạy người Phật tử nên giữ gìn 5 giới. Giữ tròn 5 giới này thì mình không gây tổn thương đến người khác. Nhờ thế mà cuộc sống của mình cũng được an vui hạnh phúc. Trước hết nói về 3 giới thuộc về hành động của Thân.

          - Giới về thân là giới về hành động, cử chỉ, là cái tướng bề ngoài của con người. Nói đến "thanh tịnh" là nói đến sự thanh tao, thanh bạch, trong sạch, là sự yên lặng, định tĩnh... Muốn "thân thanh tịnh", Đức Phật dạy không được tà dâm nghĩa là không được liên hệ tình cảm, tình dục với người không phải là vợ hay chồng chính thức của mình. Không được trộm cắp nghĩa là không lấy của không cho. Không phải chỉ trộm cắp tiền bạc, vòng vàng vật chất của người khác mới phạm lỗi trộm cắp. Lười biếng trong giờ làm việc, hoặc lấy giờ công làm việc riêng hay khai gian giờ làm việc, làm ít giờ khai nhiều giờ cũng là hành động ăn cắp.  

          Nói về "thân thanh tịnh" cũng cần phải bàn đến việc chăm sóc giữ gìn thân thể sạch sẽ. Cái dáng vẻ bề ngoài của thân cũng cần phải được chú ý như cách ăn mặc gọn gàng đẹp đẽ, nhưng giản dị không loè loẹt, không hở hang, không tẩm ướp dầu thơm nồng nực khiến những người xung quanh phải hắc xì, xổ mũi... Vì như thế cũng bị xem là thân thể bất tịnh theo nghĩa đen.

          Ngoài ra, sống ở đời người Phật tử cần lập "đức thanh tịnh" bằng cách không ỷ vào thế lực, tài năng mà uy hiếp những người thấp cổ bé họng hơn mình, ngược lại nên ân cần giúp đỡ người kém may mắn hơn mình. Ngay cả con mắt nhìn hay hành động (cử chỉ) cũng cần độ lượng chứ không nên ngạo nghễ khinh người.

          Trong kinh Phật dạy việc ác dù nhỏ cũng không làm, lỡ làm thì phải sám hối, ngừng ngay không tái phạm. Bởi vì những hành động xấu tuy nhỏ nhưng huân tập lâu ngày cũng làm hoen ố sự trong sạch của mình và tạo nghiệp bất thiện.

          - Giới thứ hai cần phải gìn giữ cho thanh tịnhlời nói. Lời nói rất cần thiết cho cuộc sống của con người, nhờ có lời nóicon người ta hiểu nhau, giải quyết được những rắc rối trong công ăn việc làm. Lời nói giúp cho người ta đến gần nhau, thông cảm nhau, thương yêu nhau hơn. Nhưng lời nói cũng là một vũ khí sắc bén hại người, hại mình không cần gươm đao. Chỉ cần lời nói ác độc vu oan vá hoạ, khiến cho nạn nhân phải chịu nhiều oan ức khổ đau, hay lời nói tuy ngọt ngào thân ái nhằm xúi giục người khác làm chuyện xằng bậy phạm pháp, hoặc lời nói đẩy đưa ngọt mật, nhằm lừa bịp cướp tình, cướp tiền, phá hoại gia cang người khác, khiến người ta đau khổ quẩn trí đi tìm cái chết thì tội ác của mình làm sao kể xiết?... Những lời nói gây phiền lụy khổ đau cho mọi ngườilời nói xấu xa, trong nhà Phật xem đó là những lời nói bất tịnh.

          Ngược lại, khi cần chúng ta xử dụng lời nói chân thật, hiền hoà từ ái... khuyên lơn người gặp cảnh trái lòng đau khổ, tạo niềm tin và sức sống cho họ. Lời nói gây tình đoàn kết trong gia đình, hay trong đạo tràng nơi mình đến tu tập, thì đó là "lời nói được xem là thanh tịnh."

          - Giới thứ ba là giữ tâm ý trong sạch. Chúng ta biết rằng động cơ chính khiến đời sống con người trôi lăn trong biển khổ từ đời này sang đời khác... là do ý tưởng. Nhưng cũng chính ý tưởng tạo vô lượng phước lành hỗ trợ việc tu tập hành trì... đưa con người tới thoát khổ, giác ngộ, giải thoát.

          Ý tưởng nắm vai trò chủ động của một đời người. Khi trong tâm có tư tưởng xấu xa ích kỷ thì nó khiến con ngườilời nói hành động xấu xa, ích kỷ. Vì thế muốn giữ thân nghiệp, khẩu nghiệp được thanh tịnh, chúng ta cần phải gạn lọc đào thải những tư tưởng hắc ám trong đầu, thay vào đó huân tập những ý nghĩ thiện lành.

          Muốn ngăn chận những niệm xấu khởi lên trong đầu, chúng ta cần phải tinh tấn tu tập để đoạn diệt các loại tâm sở như: tham lam, sân hận, tự ái, ngã mạn, nghi ngờ, tà kiến... trong kinh gọi cái mớ ô nhiễm này là lậu hoặc, là kiết sử, là tuỳ miên. Do đó, các loại tâm sở vừa kể là tâm bất tịnh, nó chi phối hành động và lời nói của chúng ta khiến cho cả ba nghiệp của chúng ta không được trong sạch.

          Tóm lại trong ba nghiệp cần thanh tịnh, thì ý tưởng là quan trọng hàng đầu, cho nên tu đức thanh tịnh, chúng ta cần phải gạn lọc cái tâm trước. Khi tâm yên lặng trong sạch thì ngôn ngữ và hành động cũng nương theo đó mà yên lặng, trong sạch theo.

 

PHÁP THỰC HÀNH GIỮ "BA NGHIỆP THANH TỊNH"

          1. Giữ Giới:

          Muốn thanh tịnh hoá ba nghiệp thân, khẩu, ý. Trước tiên phải có Chánh tri kiến, tức phải có cái nhìn đúng đắn về cuộc đời. Phải biết tư duy thế nào là sống theo lẽ phải, sống có đạo đức. Năm giới không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu cũng như không xử dụng những chất ghiền nghiện làm lu mờ lý trí con người, do Đức Phật đưa ra... là hàng rào bảo vệ cho người Phật tử sống một đời sống trong sạch không bị sa đoạ vào bùn nhơ tội ác. Như vậy việc đầu tiên là chúng ta phải tuân giữ năm giới.

          2. Thiền Định:

          Từ tâm phàm phu lăng xăng dao động tham sân si, là nơi phát xuất những niệm "biết có lời" không ngưng nghỉ. Chúng ta có thể thực tập pháp "thu thúc lục căn", nghĩa là khi nội xứ: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý... tiếp xúc với ngoại xứ: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp... ta giữ tâm yên lặng, không phản ứng trong đầu, nghĩa là ngay lúc đó chúng ta thấy, nghe, hoặc xúc chạm, chúng ta nhận biết rõ ràng đối tượng nhưng không khen chê, thương ghét. Trong nhà thiền gọi trạng thái tâm này là "biết không lời". Như vậy tâm chúng ta hoàn toàn yên lặng không dính mắc với đối tượng. Đây là cách huấn luyện tế bào não từ quán tính dao động trở thành quán tính yên lặng. Yên lặng là đặc tính của Tánh Giác, trong kinh tạm gọi đó là Tâm bậc thánh.

          Những chiêu thức khác như thư giãn lưỡi, nghe tiếng chuông, nhìn xa, nhìn gần, nhìn lướt, nhìn lưng chừng, nhìn ánh sáng nắng, nhìn bóng đen, thiền hành v.v... thuộc thiền Chỉ/Samatha, cũng giúp tâm dừng suy nghĩ, dừng lao xao.

          Khi trạng thái "biết không lời" vững chắc thì gọi là Định/Samãdhi. Đến lúc này thì ý tưởng hoàn toàn yên lặng. Chúng ta kinh nghiệm "ý thanh tịnh" vững chắc. Từ đó "thân và lời cũng thanh tịnh".

          Ba nghiệp thanh tịnh là nền tảng quan trọng cho mọi người. Nó giúp cho đời sống hiện tại của chúng ta được an vui hạnh phúc, và là cái Nhân tốt cho những đời sau. Nó còn là nền tảng cho con đường tu tập thiền Định, phát huy trí huệ tâm linh cho những ai ôm ấp lý tưởng tu hành "thoát khổ, giác ngộ, giải thoát."

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mậu Ni Phật

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

September 23-2019

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30400)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30665)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21021)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20204)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19440)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24395)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30664)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15689)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27789)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19768)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15580)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23258)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23574)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17532)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15695)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21879)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 38012)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22178)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23260)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21354)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28421)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32553)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25183)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34690)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22948)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27724)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31311)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13599)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25193)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27840)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22098)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20734)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22218)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27141)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24153)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21901)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14715)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23157)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24032)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21110)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14203)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19943)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22508)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14076)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28057)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22827)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28211)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 10989)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28514)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31578)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26179)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14959)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28048)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7445)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25363)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20705)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21132)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12238)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11914)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12809)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant