Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tương Quan Giữa Trung ĐạoDuyên Khởi

24 Tháng Mười Một 201907:30(Xem: 4723)
Tương Quan Giữa Trung Đạo Và Duyên Khởi
Tương Quan Giữa Trung ĐạoDuyên Khởi 

Chân Hiền Tâm


Tương Quan Giữa Trung Đạo Và Duyên Khởi

Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng kỳ thực chỉ là trình bày từ thô đến tế, còn thực chất thì không khác. Mặt tùy duyên nói đó chính là thứ đang hiển thị cái gọi là Trung đạo. Đây chính là tinh thần chủ đạo của Phật giáo. Không phải vì nó xa lạ với đời sống thường nhật, chỉ là vì người đời không ý thức được nó mà thôi.

Phật giáo, là phần giáo có khả năng đề cập đến chỗ thâm sâu nhất của Duyên khởi. Thành nói đến Duyên khởi mà bỏ qua mặt Trung đạo thì nghĩa Duyên khởi không có chỗ quy về, thực lý không hiển bày được. Nói đến Trung đạo mà không hiển được mặt Duyên khởi thì nghĩa Trung đạo không có chỗ triển khai, lợi ích thiết thực không có. Thấy giáo lý của Phật chia chẻ hay hỗn tạp là do không thấy được mặt tương quan giữa Duyên khởiTrung đạo.

Duyên khởi là gì?
Duyên khởi, là pháp hiện khởi nhờ vào duyên. Pháp không thể tự sinh khởi, khởi được là nhờ nương vào các pháp khác (duyên), nên nói Duyên khởi. Được hiển thị rõ ràngdễ hiểu qua câu: “Cái này có thì cái kia có. Cái này sinh thì cái kia sinh. Cái này không thì cái kia không. Cái này diệt thì cái kia diệt”1. Vạn phápthế gian đều hình thành và mất đi theo quy luật ấy. Nói theo khái niệm bản thểhiện tượng thì Duyên khởi chỉ cho mặt hiện tượng của pháp.

Cái này có thì cái kia có…, là muốn nhấn mạnh có một mối tương quan mật thiết giữa pháp này với pháp khác trong sự tồn tại cũng như sinh khởi của nó, pháp không thể độc lập tự khởi hay tồn tại. Cái này không thì cái kia không…, cũng muốn nhấn mạnh có một mối liên hệ mật thiết giữa pháp này với pháp khác trong sự hoại diệt của nó, pháp không thể độc lập hoại diệt. Nói chung, pháp sinh khởi hay hoại diệt đều có điều kiện, không phải tự nhiên. Việc này có thể kiểm nghiệm trong thực tế. Vì Duyên khởiquy luật chi phối vạn phápthế giới này.

Trong kinh Pháp bảo đàn, Lục tổ đưa ra 36 phép đối như trời cùng đất đối, sáng cùng tối đối, sắc cùng vô sắc đối v.v… chính là muốn hiển thị mặt Duyên khởi của pháp ở dạng đơn giản nhất. Lục tổ dạy: “Giả như có người hỏi sao gọi là tối thì đáp rằng: Sáng là nhân. Tối là duyên. Sáng mất tức là tối. Dùng sáng để hiển tối. Dùng tối để hiển sáng. Qua lại làm nhân cho nhau thành nghĩa Trung đạo”. Trời và đất, sáng và tối v.v… là những cặp nhị biên phân biệt. Chúng đối nhau nhưng là duyên làm thành nhau. Nói sáng là nhân, là muốn nói sáng là duyên làm nên tối. Nói tối là duyên, là muốn nói tối là nhân làm nên sáng2. Cách dùng như vậy không chỉ hiển thị cho thấy sáng và tối không có tự tánh riêng mà ngay cả nhân, duyên, quả cũng không có tự tánh riêng. Tùy duyên mà nhân có thể thành quả, quả có thể thành nhân. Cả hai đều có thể gọi là duyên. Tất cả không lìa tâm, chỉ do nhân duyên đối đãi mà hiện khởi. Vì thế, tướng tối hay sáng ấy không thể hiển thị cho cái gọi là thực tướng của sáng và tối. Không thể, thì cũng không thể trụ vào hai tướng ấy mà nhìn thấy thực tướng. Phải lìa hai tướng ấy mới có thể thấu được thực tướng. Đó là nghĩa Trung đạo. Nên nói “Qua lại làm nhân cho nhau thành nghĩa Trung đạo”.

Trung đạo là gì?

Trung đạo là âm Hán. Y từng chữ mà dịch thì “trung” là giữa, “đạo” là đường. Với nghĩa đó thì “Trung đạo” là đường giữa, hay dịch thoát chút là Đạo trung dung như Đạo trung dung của Khổng Tử. Song với Phật giáo, “trung” nếu chỉ dừng ở nghĩa “giữa” như điểm giữa hai đầu, hay thái độ vừa phải của Đạo trung dung, thì không thể diễn tả được hết ý nghĩaTrung đạo của Phật giáo muốn nói. Xin nghe phần đối đáp giữa Tăng nhân với Thiền sư Triệu Châu thì rõ.

Đang tham thiền, Triệu Châu bảo:
- Sáng thì chưa sáng, nói tối thì sắp sáng, ông ở bên nào?
Tăng thưa: - Không ở hai đầu.

Trung đạo không thuộc nhị biên phân biệt, không có chỗ nơi, nên khi Triệu Châu nói sáng, nói tối, Tăng trả lời “Không ở hai đầu”. Không ở hai đầu, tức không chỉ có sáng có tối mà với tất cả mọi nhị biên phân biệt, thảy đều không trụ. Sinh tử và Niết-bàn, đạo và tục, sanh và diệt, có và không v.v… thảy đều không trụ.
Triệu Châu hỏi tiếp:
- Vậy ở khoảng giữa?
Tăng thưa: - Nếu ở khoảng giữa liền ở hai đầu.

Theo đây thì “giữa” không phải là Trung đạo. Bởi khi đã xác định được điểm giữa, thì nhất định phải có hai đầu mới xác định được điểm giữa ấy. Đó là lý do Tăng trả lời “Nếu ở khoảng giữa liền ở hai đầu”.

Triệu Châu trả lời:
- Dù thế ấy vẫn không ra ngoài ba câu.
Tăng trả lời- Con sai sử được ba câu.
Triệu Châu nói: - Sao không nói sớm.

“Dù thế ấy”, là lời nói chấp nhận. Tuy vậy, vẫn còn lỗ hổng. Vì thuyết thông, tâm chưa hẳn đã thông. Lý tột, sự chưa hẳn tột như lý. Nên nói “Vẫn không ra ngoài ba câu”. Nhưng Tăng không phải là kẻ chỉ có cơm cháo qua ngày, nên “Con sai sử được ba câu”. Tức, thuyết thông mà tâm cũng thông. Lý tột mà sự cũng được như lý.

Như vậy, nếu hiểu Trung đạo một cách tổng quát là “Không rơi vào nhị biên phân biệt, lìa mọi chấp trước, chỉ tùy duyên mà hiện khởi” thì nghĩa Trung đạo có thể đáp ứng được ở cả hai mặt, phương tiệncứu cánh.

Vì có phần phương tiện, nên vẫn cho phép hiểu Trung đạo theo nghĩa “giữa” hay “trung dung”. Song “giữa” được hiểu đây không mang tính cố định, chỉ mang tính tùy duyên. Bởi tướng của pháp chưa từng dừng trụ nên “giữa” cũng không dừng trụ ở một mốc cố định nào. Có thể nương vào thí dụ sau để hiểu về nghĩa “giữa” muốn nói đây. Thí dụ này cũng giúp ta hiểu được mối tương quan giữa Trung đạo và mặt Duyên khởi của pháp.

Một con đường, hai bên là hố sâu. Dù con đường vòng vo thế nào, nếu bạn không dịch chuyển ra ngoài khoảng giữa con đường ấy, bạn sẽ luôn an toàn. Giáo pháp của Đức Phật cũng mang tính Trung đạo như thế. Chỉ là tùy bệnh cho thuốc. Với ai đi lệch về bên trái, nguy cơ sẽ lọt hố, chư Phật nói: “Về bên phải!”. Ai đi lệch về bên phải, nguy cơ sẽ lọt hố, chư Phật nói: “Về bên trái!”. Về bên phải hay bên trái rồi mà đi hơi quá, nguy cơ lại lọt hố, thì chư vị lại ngăn việc ấy lại. Điều đó cho thấy, trái hay phải không nhất thiết luôn là vậy, chỉ tùy duyên của chúng sinh mà lập. Với người xan tham keo kiết thì dạy bố thí. Bố thí thành tập rồi thì không dạy bố thí nữa. Với kẻ sống buông lungsân hận thì dạy giữ giới cùng nhẫn nhục. Với kẻ giữ giớinhẫn nhục đã thuần thục thành tập rồi, thì dạy “Giữ giới cùng nhẫn nhục/ Chiêu tội chẳng chiêu phước/ Muốn biết không tội phước/ Chẳng trì giới nhẫn nhục”3 để ngộ nhập chân thể vô trụ. Bởi thứ gì thành tập rồi đều là nhân của chấp trước. Chấp trước thứ gì tức là trụ vào thứ ấy. Khó thể nhập chân thể vô trụ. Vì thế trong Pháp bảo đàn kinh, Lục tổ dạy tạo thiện nghiệpkhông chấp trước vào thiện nghiệp. Tập cũng chính là nhân của khổ. Không phải khổ của Phần đoạn sinh tử thì cũng là khổ của Biến dịch sinh tử. Còn tập là còn luẩn quẩn trong hai loại sinh tử đó, vì thế cần lìa hết mọi chấp trước.

Đó là lý do vì sao trong Phật giáo thấy có nhiều tông phái khác nhau, kinh luận cũng không ít, mà có khi lại thấy lời dạy của Phật Tổ trái nhau. Là do giáo pháp của Phật chỉ là thuốc, tùy bệnh của chúng sinh mà lập.

Cái này có thì cái kia có, nên có bệnh thì có thuốc, thuốc phù hợp với bệnh. Người bình thường không cho uống á phiện, nhưng người ung thư ở giai đoạn đau quá, có khi cũng phải dùng á phiện cứu họ. Người cơ tương ưng với niệm Phật thì không thể vào thiền mà có kết quả. Người có cơ tu thiền thì không thể dạy họ trì chú. Thành “thống nhất” nói trong Phật giáo không phải là quy tất cả về một pháp là Thiền hay Tịnh hay Mật. Không được mà cũng không thể. Chúng sinh có bao nhiêu cơ thì có bao nhiêu tông phái tương ưng. Chỉ là tông nào làm tốt nhiệm vụ tông đó, không ai xâm phạm ai, thì chỗ thống nhất ắt tự hiển lộ. Đó là đều làm lợi ích cho chúng sinh. Việc này cũng có điều kiện của nó, là dù phương tiện khác nhau thế nào, sự chỉ dạy cũng không ra ngoài tinh thần mà Phật đã nói trong các kinh luận. Không thì không còn là con của Phật và pháp của Phật.

Cái này không thì cái kia không, nên bệnh hết, thuốc cũng bỏ, không nói Tiểu thừa, Đại thừa v.v… Lên bờ rồi, không vác thuyền theo.

Đó là nghĩa Trung đạo được hiển thị ở mặt tùy duyên.

Với nghĩa trung dung, kinh luận Phật giáo cũng nói đến nhiều. Trung đạo trong trường hợp này mang nghĩa không thái quá cũng không bất cập.

Luận để thấy mối tương qua

Lìa nhị biên phân biệtTrung đạo. Không phải có, không phải không, không phải sinh, không phải diệt v.v… là Trung đạo.

Vạn phápthế gian đều y duyên mà tồn tại, y duyên mà hoại diệt, nên không có tự tánh của riêng nó. Không có tự tánh thì không thể nói có, nên “không phải có”. Tuy không phải có, nhưng đủ duyên thì mọi thứ hiện bày đầy đủ như hiện nay đang thấy, nên “không phải không”. Không phải có, không phải không, là nghĩa Trung đạo.

Nhân sinhthế giới đều do những nghiệp nhân đã huân tập trong tạng thức, đủ duyên mà biến hiện ra, như bóng hiện hình trong gương, không có tự thể riêng, tâm chân thật chính là tánh, nên nói “không phải sinh”. Sinh đã không thật sinh thì diệt cũng chẳng thật diệt, nên nói “không phải diệt”. Không phải sinh, không phải diệt, là nghĩa Trung đạo.

Tạm luận như thế để thấy mối liên quan giữa Trung đạoDuyên khởi

Như vậy, là pháp Duyên khởi thì không thể có, không thể không, không thể sinh, không thể diệt... ấy là nghĩa Trung đạo.

Trung đạo với nghĩa thực tướng

Nghĩa này được tìm thấy trong các kinh luận Đại thừa hơn là trong hệ A-hàm. Nó được thể hiện rõ nhất trong câu nói của Lục tổ khi gặp Thượng tọa Minh: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?”4.

Thượng tọa Minh và Lục tổ đều ở trong pháp hội của Ngũ tổ. Khi nghe tin y pháp đã về phương Nam thì Thượng tọa Minh đuổi theo. Đến nơi, tuy thấy y mà không thể nhấc lên được, mới thưa với Huệ Năng: “Tôi vì pháp mà đến không phải vì y”. Huệ Năng bảo: “Ông nếu vì pháp mà đến thì nên dứt sạch các duyên, chớ sinh một niệm”. Thượng tọa Minh theo đó mà làm. Giây lâu Tổ mới nói “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh”. Thượng tọa Minh ngay câu nói đó liền đại ngộ.

Bản lai diện mục là bộ mặt xưa nay của chúng sinh. Chúng sinh, tùy nghiệp nhân huân tập mà thay hình đổi dạng trong sáu đường, nhưng dù thay đổi thế nào thì vẫn luôn tồn tại một thứ không thay đổi mà Tổ gọi là bộ mặt xưa nay. Xưa hay nay, bộ mặt ấy vẫn như thế. Bộ mặt ấy không thuộc nhị biên phân biệt, nên ngay nơi cái thế Trung đạo mà Tổ nêu ra, Thượng tọa Minh nhận lại.

Trung đạo với nghĩa thực tướng, còn thể hiện rõ qua Bát-nhã tâm kinh khi nói về tướng không của các pháp. “Tướng không của các pháp không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không tăng, không giảm …”. Nói về thực tánh mà lại nói tướng không, là muốn nói tướng của cái tánh không ấy không rơi vào nhị biên phân biệt, không thuộc sở biết cũng không phải là năng biết. Nói tướng, mà tướng ấy phải lìa mọi tướng (ngay cả tướng không) thì mới gọi là thấu được tướng ấy. Tuy lìa mọi tướng mà nó lại là nền tảng, từ đó hiện khởi các tướng cũng như các cặp nhị biên phân biệt, nên các cặp nhị biên phân biệt không lìa tánh ấy mà có, nhưng tánh ấy không phải là các cặp nhị biên. Vạn pháp cũng hình thành tương tự như thế5. Không phải, nhưng do vô minhtriển chuyểnhuân tập. Huân tập rồi thì bị chính cái lực huân tập ấy dẫn chạy mà trôi lăn theo có và không v.v… Trên cái có và không ấy, lại tiếp tục gây tạo các nghiệp thông qua ba nghiệp thân, khẩu, ý6. Giờ muốn đưa chúng sinh ngộ nhập lại tánh thể ấy thì phải lìa các ác nghiệp, lìa chấp trước vào thiện nghiệp. Nói chung là lìa mọi chấp trước nhị biên.

Một khi tâm chúng sinh lìa được mọi chấp trước, dù chỉ trong sát-na, thì ngộ lại được phần chân thể này. Ngộ thì đồng chư Phật, nhưng tùy tập khí được thanh lọc mà giác có cạn sâu, nên ngộ rồi còn phần thể nhập. Tùy tập khí được tiêu trừ mà phần thể nhập có cạn sâu. Đây là lý do Bồ-tát có đến năm mươi mấy vị. Kiến tánh rồi còn phải trải qua Thập địa mới thành Phật. Chân như cũng được phân thành mười loại. “Tuy trong Sơ địa đã đạt được hết thảy. Nhưng mười thắng hạnh để chứng đạt chân như chưa viên mãn. Để viên mãn mười thắng hạnh này mà lập ra mười loại chân như”7, là do phần thể nhập có cạn sâu.

Kinh Lăng-già tâm ấn nói về thực tướng vạn pháp ở mức độ chi tiết hơn: “Sinh là bất sinh, thường là vô thường, tướng là vô tướng, trụ dị là phi trụ dị, đoạn là bất đoạn v.v…”. Bất sinh, là trả lời câu hỏi của ngài Đại Huệ khi hỏi “Thế nào là sinh?”. Phi trụ dị, là trả lời câu hỏi “Thế nào là trụ dị?” v.v… 108 câu hỏi đều được Thế Tôn trả lời bằng cách dùng bốn từ vô, bất, phi, ly phủ định tất cả. Thiền sư Hàm Thị gọi là “Chỉ thẳng pháp môn Đệ nhất nghĩa rộng lớn vi diệu, lìa nói, bặt chứng”8. Chính là đang nói về thực tướng của sinh, trụ, dị, đoạn, thường v.v…

Thực tướng ấy cũng chính là tánh thể Chân như nói trong luận Đại thừa khởi tín.

Khi nói đến “Như thật không”, luận Đại thừa khởi tín ghi: “Tự tánh chân như chẳng phải tướng có, chẳng phải tướng không, chẳng phải tướng chẳng có, chẳng phải tướng chẳng không…”. Có, không, vừa có vừa không, chẳng có chẳng không là các kiến chấp của người đời đối với vạn phápthế gian này. Tùy tâm thức của từng người mà người thấy thế giới này là có, người thấy thế giới này là không, người thấy thế giới này vừa có vừa không, người thấy thế giới này không có không không v.v… Ngoài cái thấy có của phàm phu, còn lại thường được hình thành từ quá trình thiền định9. Tùy chủng tập của từng người mà tướng cảnh giới hiện ra, rồi hình thành nên các loại kiến chấp này. Như người mù sờ voi, tùy tay sờ voi mà hình thành nên quan niệm của mình về voi, chưa thấy trọn được voi, nên các tướng ấy không phải là thực tướng của vạn pháp. Vì thế nói “Tự tánh Chân như chẳng phải tướng có, chẳng phải tướng không v.v…”. Tự tánh Chân như lìa các tướng ấy, cũng có nghĩa tâm thức của hành giả phải lìa các tướng ấy mới thấu được tự tánh Chân như, thực tướng của vạn pháp.

Với Trung luận, Bồ-tát Long Thọ mở đầu bằng bài kệ bốn câu:
Không sinh cũng không diệt
Không thường cũng không đoạn
Không đến cũng không đi
Không một cũng không khác.
Tuy chỉ bốn câu nhưng tóm kết hết thảy mọi pháp ở thế gian. Cũng là nói về thực tướng của vạn pháp không rơi vào phân biệt đối đãi.

Sinh là trạng thái tâm của phàm phu. Diệt là trạng thái tâm của Nhị thừa. Không trụ vào sinh cũng không trụ vào diệt thì thực tướng của vạn pháp hiển bày, chính là tâm Chân như nói trong luận Đại thừa khởi tín, tướng không nói trong Bát-nhã tâm kinh. Tất cả đều không lìa tâm ấy mà có. Đó là nghĩa Trung đạo mà Trung luận muốn hiển bày.

Trong Duy-ma-cật sở thuyết kinh, phẩm Vào pháp môn không hai, Chư vị Bồ-tát tùy theo sở ngộ của mình mà trình pháp. Vị thì nói: “Sinh tử, Niết-bàn là hai. Nếu thấy được tánh của sinh tử thời không có sinh tử, không buộc, không mở, không sinh không diệt, hiểu như thế là vào pháp môn không hai”. Vị thì nói: “Sắc và không là hai. Sắc tức là không. Không phải sắc diệt rồi mới không. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Thức và không là hai. Thức tức là không. Chẳng phải thức diệt rồi mới không. Tánh thức tự không. Thông hiểu lý đó là vào pháp môn không hai” v.v… Và kết thúc bởi sự im lặng khó nghĩ bàn của Bồ-tát Duy-ma-cật. Trung đạo trong trường hợp này chính là vào pháp môn không hai, mà hiển thị tột cùng của nó là “Ngôn ngữ đạo đoạn. Tâm hành xứ diệt”10.

Trung đạo nói ở mặt phương tiện

Nói Trung đạo ở mặt phương tiện là nói những gì thuộc Trung đạo nhưng không ở phương diện thực tướng.

Chư vị Nhị thừa, tuy chưa thấu được thực tướng các pháp, nhưng trong quá trình tu hànhthực chứng, cũng không lìa Trung đạo. Việc này được ngài Xá-lợi-phất xác chứng trong kinh Pháp hoa, ở phẩm Thí dụ như sau: “Các vị hữu học và vô học đây cũng đều đã tự rời chấp ngã cùng chấp có, chấp không v.v…”. Hàng Nhị thừa thấy rõ pháp do nhân duyên sinh, nên không rơi vào chấp cóchấp không của ngoại đạo, không thấy pháp là có hay là không nữa, nhưng vẫn thấy có lý Nhân duyên chi phối tất cả, vẫn thấy có sinh tử để ra, Niết-bàn để nhập, chưa nhận ra được thực tướng của sinh tử và Niết-bàn, nên Trung luận mới có các bài Phá nhân duyên, Phá pháp, Phá Niết-bàn v.v…

Trong phẩm An lạc hạnh, kinh Pháp hoa, Phật cũng dạy chư Bồ-tát quán tướng như thật không của tất cả pháp là “Chẳng điên đảo, chẳng động, chẳng thối, chẳng chuyển, như hư không không có thật tánh, chẳng sinh, chẳng xuất, chẳng khởi, không danh, không tướng v.v…”11. Tuy đoạn kinh nói về thực tướng, nhưng là dạy hàng Bồ-tát quán tướng các pháp như vậy, do nhấn mạnh ở mặt quán này mà ở đây liệt vào nghĩa phương tiện.

Cũng có thể tìm thấy nghĩa Trung đạo như vậy ngay trong các kinh thuộc hệ A-hàm.

Trong Tăng nhất A-hàm tập 1, phẩm Hữu vô12, Phật dạy: “Nên biết có hai kiến chấp này. Thế nào là hai? Đó là hữu kiếnvô kiến. Các Sa-môn và Bà-la-môn nào đối với hai kiến chấp ấy, đã học tập, tụng đọc… thì đấy chẳng phải là Sa-môn và Bà-la-môn… Còn với Sa-môn và Bà-la-môn nào đối với hai kiến chấp ấy, tuy đã tụng đọc nghĩ nhớ, nhưng biết xả bỏ thì đó là Sa-môn biết giữ hạnh Sa-môn, Bà-la-môn biết giữ hạnh Bà-la-môn, tự thân thủ chứng, sinh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập v.v… Thế nên, này các Tỷ-kheo, đối với hai kiến chấp này, chẳng nên học, chẳng nên đọc tụng, nên lìa bỏ hẳn. Như thế, này các Tỷ-kheo, nên học điều này”. Đây là nói Trung đạo ở mặt nhận thức đối với vạn phápthế giới này. Phải lìa nhận thức ấy mà tu tậptu tập để lìa hẳn các nhận thức ấy. Trong Bát chánh đạo, nó thuộc Chánh kiến.

Trong Tương ưng bộ kinh, bài kinh Chuyển pháp luân, Đức Thế Tôn nói với năm Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo! Có hai cực đoan mà người xuất gia không nên thực hành theo. Một là đắm say trong các dục - hạ liệt, đê tiện, phàm tục - không xứng với bậc thánh, không liên hệ đến mục đích. Hai là tự hành khổ mình - đau khổ - không xứng với bậc thánh, không liên hệ đến mục đích. Này các Tỷ-kheo! Tránh xa hai cực đoan này, là con đường Trung đạo do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn, chính là Bát chánh đạo”13. Ở đây Trung đạo được định nghĩa là Bát chánh đạo. Bát chánh đạochánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ v.v… là pháp dùng đối trị với tà kiến, tà tư duy, tà ngữ v.v… Đây là Trung đạo được nói ở mặc tùy duyên. Tùy duyên của chúng sinhlập pháp đối trị, như thí dụ đã nói về nghĩa “giữa” trong phần “Trung đạo là gì?”. Y theo Lục tổ thì chánh và tà “qua lại làm nhân cho nhau thành nghĩa Trung đạo”. Cùng tột chánh kiến ấy là “Người mình không khác. Sắc và tâm không hai. Bồ-đề phiền não bản tánh không khác. Sanh tử Niết-bàn bình đẳng nhất chiếu”14.

Trong các kinh, Trung đạo cũng được đề cập đến với nghĩa trung dung, không thái quá cũng không bất cập.

Kinh Tăng nhất A-hàm tập 1, phẩm Địa chủ15, có kể câu chuyện: Tôn giả Sona ở nơi chỗ vắng, ngày đêm tu hành miên mật, không bỏ Hai mươi pháp hạnh đầu đà, ngày đêm kinh hành không lìa lời dạy Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, có khi đứt chân chảy máu… nhưng tâm vẫn không thể giải thoát khỏi các dục lậu. Tôn giả thối tâm, muốn trở về đời sống cư sĩ, chỉ chuyên bố thí tài vật. Thế Tôn từ xa biết được tâm ấy, mới đến hỏi Sona:
- Xưa, Thầy ở nhà đàn có giỏi không?
- Dạ, con đàn giỏi.
- Nếu dây đàn căng quá thì tiếng không đều, lúc ấy nghe có hay không ?
- Bạch Thế Tôn, không.
- Vậy dây đàn chùng, nghe có hay không?
- Bạch Thế Tôn, không.
- Nếu dây đàn không chùng, không căng thì thế nào?
- Bạch Thế Tôn, nếu dây không chùng không căng thì tiếng đàn nghe hay.

Thế Tôn bảo:
- Cũng vậy! Người quá tinh tấn thì giống như trạo cử. Người hay giải đãi thì đọa vào tà kiến. Nếu có thể ở giữa hai điều ấy thì đó là thượng hạnh. Như thế, chẳng bao lâu sẽ thành bậc vô lậu.

Tôn giả Sona theo đó mà thực hành. Chẳng bao lâu sau, Tôn giả chứng quả A-la-hán. Và được tuyên dương là Tỷ-kheo tinh cần khổ hạnh đệ nhất.

Đó là những trích dẫn từ kinh luận, để hiểu về cái gọi là Trung đạo mang tính phương tiện.

Hệ quả rút được từ mối tương quan

Do Trung đạoDuyên khởi có mối tương quan mật thiết như vậy, nói đến Trung đạo là nói đến Duyên khởi, nói đến Duyên khởi là nói đến Trung đạo, nên tánh không nói trong Phật giáo không phải là tướng không đối với có, cũng không mang tính đoạn diệt, không ngơ.

Không mà Duyên khởi

Không, nhưng một khi những nghiệp nhân được huân tập trong tạng thức đủ duyên để sinh khởi thì thân căn cũng như cảnh giới của một chúng hữu tình liền hiện ra. Đại sư Hàm Thị nói: “Nếu các thứ hư vọng mà có nhân để nương thì sự tương tục của căn và thức không thể dừng”16. Thành tánh địa ngục tuy không, nhưng nếu đã tạo nhân địa ngục thì khi đủ duyên, cảnh giới địa ngục hiện tiền. Địa ngục trở thành có với người tạo nghiệp nhân địa ngục. Thực tướng của cõi trời tuy không, nhưng gieo nhân của quả trời thì khi đủ duyên liền có thân cănthế giới trời. Cõi trời trở thành có với người gieo nhân cõi trời. Hiện như thế nào thì như ngủ mê rồi mộng, tùy thân tâm lúc ngủ mà có cảnh giới tương ưng. Mộng thì không phải thật. Nhưng khi đang mộng thì mọi thứ không phải không. Nếu không biết đang mộng thì khổ đau hay hạnh phúc vẫn tồn tại. Như hiện nay, nhân sinh đang xuất hiện với thân cănthế giới của mình. Đều do nghiệp nhân đã lưu giữ trong tạng thức biến hiện ra. Nghiệp đồng thì thế giới đồng. Nghiệp khác thì thế giới khác. Vừa đồng vừa khác thì thế giới đồng, chủng loại đồng mà tính tình, dung mạohoàn cảnh khác. Đó là lý do vì sao nói các pháp là không mà trên sự, kinh luận vẫn dạy nhân sinh làm lành tránh ác. Vì tuy không, mà đủ duyên thì hiện cảnh giới. Tuy có cảnh giới nhưng cảnh giới ấy chỉ do nghiệp tạo thành, nên muốn thay đổi một cảnh giới, chỉ cần thay đổi các nghiệp nhân sao cho tương ưng với cảnh giới mới. Không có cái gọi là bất di bất dịch.

Cho nên, nghe Bát-nhã nói không thì không nên lầm tướng các pháp là không, không có gì hết, không thiện, không ác v.v… rồi không gìn giữ giới đức, sống buông lung theo tập khí bao đời. Đó là chấp không, không phải thấu được tánh Không. Vì không thấu được tánh Không, nên bỏ qua mặt Duyên khởi của pháp (được triển khai thành Nhân duyên, Nhân quả). Chư vị cổ đức nói “Bác không nhân quả” là vậy. Vì chỉ biết không, không thấy Duyên khởi, nên thành bác bỏ nhân quả. Nên nhớ, hóa thân Phật khi vào thế giới Duyên khởi để độ sinh vẫn chịu sự chi phối của Nhân quả. Nên Tổ Bá Trượng mới nói với ông lão thân chồn rằng: “Bậc Đại tu hành không lầm nhân quả”17.

Thứ hai, Trung đạo nói ở mặt phương tiện có phần đối trị. Nghĩa là không bệnh thì thôi, đã có bệnh thì nhất định phải dùng thuốc, bệnh mới khỏi. Không keo kiết thì không đặt vấn đề bố thí, còn một khi đã có tâm keo kiết thì phải dùng bố thí để đối trị. Không có việc “Đi thẳng vào không, không bố thí cũng không keo kiết”. Đương nhiên, ở thế giới tương đối thì không có thứ gì cố định và mang tính phổ quát. Vẫn có trường hợp đi thẳng vào được. Nhưng số đó không nhiều. Đây đang nói ở mặt đa phần. Nếu không dùng pháp bố thí thì không biết nương đâu để xác minh là không keo kiết. Cái gọi là “đi thẳng vào không” có khi chỉ là sự bào chữa cho chủng keo kiết mà thôi. Tương tự, tâm không loạn động thì không cần dùng pháp đối trị, nhưng một khi tâm đã loạn động thì nhất định phải có pháp đối trị. Không niệm Phật thì trì chú, không trì chú thì dùng chỉ-quán v.v… không thể không có pháp đối trị mà vào thẳng Trung đạo thực tướng được.

Do pháp chỉ mang tính đối trị, tức giá trị của nó chỉ có trong duyên, không mang tính phổ quát, nên không phải khi nào nó cũng được áp dụng cho mọi đối tượng, mọi lúc và mọi nơi. Đó là lý do giải thích vì sao giới của Phật tử tại gia là “không sát sinh”, Trần Nhân Tông vẫn cầm quân đánh giặc. Chỉ là tùy tâm lực và căn cơ của từng người mà tự lợilợi tha sao cho phù hợp, tránh cái nhìn áp đặt. Đây là nói ở mặt dụng pháp. Đứng trên mặt nhân quả mà nói, mọi hành tác xảy ra trên thế gian này đều không thoát được Nhân quả. Nhân một khi đã gieo, đủ duyên sẽ trổ quả. Phật khi thành đạo rồi, vẫn bị quả báo mã mạch và đau đầu, đều do các nghiệp nhân đã gieo từ trước, giờ đủ duyên hiện quả. Sát sinh cũng vậy, khi đủ duyên quả vẫn phải nhận, không đủ duyên thì không nhận, còn đủ duyên để chuyển thì chuyển.

Duyên khởi mà không

Trung đạo tuy có tương quan mật thiết với Duyên khởi như vậy, nhưng không phải khi nào mặt Duyên khởi này cũng luôn tồn tại. Nếu nó luôn tồn tại thì tướng Duyên khởi ấy chính là tánh của vạn pháp. Nhưng không, trong phạm vi Trung đạo thực tướng, là tự thể chân như nói trong luận Đại thừa khởi tín, tướng không nói trong Bát-nhã tâm kinh, Phật tánh nói trong kinh Đại bát Niết-bàn v.v… thì khi chứng được tánh thể ấy, tất cả đều phi. Phi thiện, phi ác, phi nhân, phi quả, phi thân tướng, phi chứng đắc, phi sở biết, phi năng biết. Chứng được tánh thể ấy, nhà thiền gọi là kiến tánh, là thấy lại được cái tánh phi thiện, phi ác của mình. Nó là phần Thể đại trong ba loại Thể đại, Tướng đại và Dụng đại18. Luận nói: “Tuy rốt ráo không, xưa nay tự không, lìa tất cả tướng” nhưng lại “đầy đủ vô lượng tướng công đức”19, được hiển thị đầy đủ qua ba thânPháp thân, Báo thânHóa thân. Đó là lúc Thể, Tướng và Dụng của chư Phật hiển bày đầy đủ.

Duyên khởi nên cái này có thì cái kia có

Thế giới này xuất hiện đều theo quy luật Duyên khởi. Duyên khởi, nói ở mặt đơn giản nhất là một cặp nhị biên phân biệt. Xấu-tốt, thiện-ác v.v… Cho nên, hoặc là không thấy thiện cũng không thấy ác, tức tâm đặt ở Trung đạo thực tướng. Còn một khi đã thấy có mặt này thì mặt đối nghịch nhất định tồn tại, chỉ là ít hay nhiều, đã đủ duyên hiện hay chưa đủ duyên hiện. Không phải hoàn toàn không có. Nếu không có thì mặt xuất hiện đó sẽ trở thành tánh của pháp. Nhưng tánh của pháp là không, không rơi vào nhị biên phân biệt, không tìm thấy ở mặt Duyên khởiDuyên khởi không lìa tánh không mà có. Thành với thế giới Sa-bà này, thời Chánh phápthời giáo pháp được ứng dụng rộng rãi, chỗ tâm chứng rộng và sâu, không phải không có kẻ bất thiện. Đó là lý do để hiểu vì sao khi Phật còn tại thế, trong Tăng đoàn vẫn xuất hiện những vị Tăng không đủ phẩm chất v.v… Tương tự, thời Mạt phápthời giáo pháp của Phật không được ứng dụng rộng rãi, giáo pháp được truyền đạt ra có khi không y như tinh thần kinh luận đã nói, huống là việc tu chứng rộng rãi, nhưng điều đó không có nghĩa là không có người tu chứng giáo pháp của Phật. Chỉ là thời Chánh pháp thì tu chứng nhiều, đọc học ít. Thời Mạt pháp thì đọc học nhiều, tu chứng ít. Cũng không phải thời Mạt pháp thì không có Chánh pháp, không có Tăng bảo v.v… Chỉ là nhiều hay ít, ẩn hay hiện, tùy phước duyên của từng người mà gặp. Mọi thứ ở thế gian đều như thế.

Duyên khởi nên cái này diệt thì cái kia diệt

Với các mối quan hệ trong xã hội như chủ và tớ, thầy và trò, chính quyền và nhân dân v.v…, nếu muốn chúng hình thành và tồn tại lâu dài thì cần phải thấy được mối liên hệ nhân duyên giữa chúng, rồi ứng dụng Trung đạo vào các mối quan hệ ấy thì quan hệ ấy mới tồn tại lâu dài.

Thấy được mối liên hệ nhân duyên là thấy có chủ mới có tớ, có tớ mới gọi là chủ, có thầy mới gọi là trò, có trò mới thành thầy, có nhân dân mới có chính quyền, có chính quyền mới thành nhân dân v.v… Thấy được vậy cũng có nghĩa là thấy được rằng: Không có thầy thì không có trò, không có trò thì thầy cũng không, không có nhân dân thì không có chính quyền, không có chính quyền thì nhân dân cũng loạn v.v... Chúng có một mối liên hệ mật thiết với nhau như vậy. Cái này có thì cái kia có. Cái này không thì cái kia không.

Ứng dụng Trung đạo vào các mối quan hệ là ứng dụng Trung đạo vào đời sống thường nhật, được khai triển ở mặt tùy duyêntrung dung.

Tùy duyên là duyên thế nào làm cho đúng với duyên ấy. Mỗi người cần làm tốt trách nhiệm và bổn phận của mình trong vai trò mình đang giữ. Thầy cho ra thầy, trò cho ra trò, chủ cho ra chủ, tớ cho ra tớ v.v… Nếu không làm đúng vai trò của mình thì thầy không còn là thầy. Thầy mất thì trò mất. Trò mất thì thầy cũng tiêu. Cho nên, muốn cho những mối quan hệ trong xã hội này trở thành tốt đẹp thì mỗi người trong mối quan hệ đó phải tự làm đúng vai trò của mình. Không làm tròn trách nhiệm và bổn phận của mỗi người thì mối quan hệ ấy khó mà tồn tại lâu dàitốt đẹp. Đó là một trong các ý nghĩa “Pháp trụ pháp vị, tướng thế gian thường trụ”20.

Trung dung là không đi quá giới hạn cho phép, không thiên lệch về bên nào. Như chính quyền và nhân dân, nếu quyền lợi được thâu tóm toàn bộ vào chính quyền, nhân dâncực khổ não, thì chính quyền khó mà tồn tại lâu dài. Thành cần phải có một sự trung dung trong quyền lợi và nghĩa vụ giữa chính quyền và nhân dân, mới mong củng cố mối quan hệ ấy. Các bậc trị nước xưa, điển hình là thời các vua Trần, đất nước phồn vinh, nhân dân đồng lòng, là do ứng dụng được lý Trung đạo vào việc trị nước an dân. Vì trung dung nên mọi thứ đều phải dừng ở mức độ hợp lý. Nếu quyền lợi nghiêng hẳn về phía chính quyền thì mối quan hệ đó không thể còn. Nếu quyền lợi nghiêng hẳn về phía nhân dân, cũng chẳng ai còn tâm tham gia bộ máy chính quyền. Chính quyền không thì nhân dân cũng khó tồn tại yên bình. Cho nên, mọi thứ cần trung dung.

Song không phải ai cũng có thể thông được lý Trung đạoDuyên khởi để ứng dụng cho bản thân, gia đình, xã hội mà mang chúng ra rao giảng cùng khắp. Chỉ có thể triển khai nó ở mặt giáo dụcpháp luật. Đây cũng là mặt tùy duyên của pháp.

Giáo dục không chỉ chú trọng dạy các em kỹ năng, kiến thức và chuyên môn, mà cần đẩy mạnh vấn đề đạo đức nhân quả ngay từ khi các em còn nhỏ. Nói đến nhân quả, không một tôn giáo lớn nào không đề cập đến nó. Ở hiền gặp lành, ăn khế trả vàng v.v… đều là những mẩu chuyện dạy các em cách sống thiện mang tính nhân quả. Đây là phần giáo giúp con người tự dừng bớt tham, sân, si trong chính mình, là phần giáo rất quan trọng. Bởi tham sân không được chuyển hóa ngay từ nhỏ thì khi đủ duyên, không ai còn nhớ đến pháp luật mà dừng tay, mọi thứ cứ theo tập khí tham sân mà đi.

Pháp luậtphương tiện giúp ổn định xã hội, góp phần giúp con người dừng bớt tham, sân v.v… nên pháp luật muốn ứng dụng khả thi thì pháp luật ấy phải được đặt nền tảng trên lý tùy duyêntrung dung. Tùy duyên là tùy tội, tùy người, tùy trường hợp mà có bản án thích ứng. Nếu bản án không tương ưng với tội danh thì khó mà ngăn trừ tội phạm, khó mà không đánh mất lòng dân. Vấn đề xử nặng hay nhẹ cần phải được xét ở nhiều mặt, làm hại nhiều người hay ít người, cố ý hay do bắt buộc, lần đầu hay tái phạm v.v… Cố ýtái phạm đương nhiên phải xử nặng hơn do bắt buộc và lần đầu. Nếu mang tính cách lan rộng, ảnh hưởng đến nhiều người thì cần phải xử nặng hơn là làm ảnh hưởng đến ít người. Như vừa rồi đây, có một đề nghị tử hình với các quan tham21. Nghe giết người mà ủng hộ là không nên, nhưng xét về mặt lợi ích cho xã hội và cho chính bản thân quan tham, thì bản án đó là nên. Bởi mọi bất ổn trong xã hội hiện nay hầu như đều có bàn tay của tham nhũng trong đó. Nếu không tham nhũng thì ngân sách không thâm hụt, chi phí trợ cấp cho người nghèo, người bệnh tốt hơn. Nếu không tham nhũng thì cờ bạc, số đề, cá độ cũng không thể tồn tại mà nảy sinh những thành phần bất hảo. Nếu không tham nhũng thì thực phẩm bẩn, hàng gian, hàng giả sẽ được phanh phui tận gốc v.v… Nghĩa là, tham nhũng mà ngừa được thì mọi thứ khác có thể ngừa được. Cái này diệt thì cái kia diệt khi chúng có mối liên quan mật thiết với nhau. Muốn ngừa được thì giáo dục vẫn là phần quan trọng chính, nhưng pháp luật cũng phải mang tính răn đe mạnh. Tử hình rồi thì không còn điều kiện chạy chọt, hạ án v.v… để vẫn tính đường tham nhũng. Cho nên, pháp soạn ra cần tương ưng với duyên của nó. Nếu không tương ưng khó mà an định được xã hội. Song pháp soạn đúng rồi, bộ phận quan tòa đòi hỏi phải có kỹ năng chuyên môn và liêm chính ở mức tối thiểu. Không thì luật dù có đúng cũng chẳng thể xử cho hợp lý.

Phước phần hiện nay của người dân, là đất nước đang có sự thay đổi rất lớn. Song thay đổi được bao nhiêu còn tùy thuộc vào phước phần của dân chúng, không hoàn toàn nằm ở chính quyền. Duyên khởi là vậy. Đó cũng là một trong các lý do vì sao vua Trần Nhân Tông đi khắp nơi dạy dân tu thập thiện. Cho nên, bản thân mỗi người dân cần phải tự trang bị cho mình những đạo đức tối thiểu, thì việc cải tổ hiện nay mới thành công trọn vẹn. Việc này cho thấy vai trò không nhỏ của Tăng bảo trong tình hình hiện nay. Vì chư vị dạy người nghĩ thiện và sống thiện, mở rộng lòng từ đối với muôn loài. Phật tử thì tùy duyên, tùy hoàn cảnh của mình mà giúp Chánh pháp lan tỏa. Không cần nói đến phần giáo giải thoát cao siêu, chỉ cần giữ 5 giới cho tốt, chỉ cần đặt mình vào hoàn cảnh của người để thông cảm và giúp đỡ v.v… thì xã hội sẽ an bình, cảnh giới mình gặp sẽ luôn tốt đẹp. Tâm người dân nếu thiện thì nhất định phải gặp một chính quyền đáp ứng được những mong muốn của mình. Tâm người dân bất thiện thì khó mà gặp được một chính quyền như ý. Duyên khởi là vậy. Nên toàn bộ kinh luận đều tập trung dạy người hành thiện.

Kết luận

Câu nói “Biển lớn chỉ có một vị mặn. Cũng vậy, pháp và luật của ta cũng chỉ có một vị là giải thoát”22 đi kèm với hình ảnh Tăng chúng sống an trú trong tĩnh lặng, khiến đa phần đều nghĩ Phật pháp tách lìa đời sống thường nhật và đưa con người xa lìa cuộc sống này. Với cái nhìn Trung đạo-Duyên khởi, ta sẽ thấy không phải như vậy. Mọi thứ đều tùy duyên. Những gì Phật thuyết trong 49 năm hành đạo đã nói lên điều đó. Không phải chỉ dạy nhân sinh con đường xuất thế mà Phật còn dạy nhân sinh cách tìm thấy hạnh phúcthế gian này. Tùy tâm thức ưa muốn của chúng sinh mà Phật có pháp và luật đáp ứng mong muốn đó. Con đường xuất thế tuy được Như Lai coi trọng, nhưng lý do chính cũng chỉ là muốn giúp nhân sinh thoát khổ. Bởi con đường xuất thế mới có thể giúp nhân sinh thoát khổ rốt ráo, cũng giúp nhân sinh có cái nhìn đúng đắn đối với thế giới này, không phải nhìn thế giớicon người qua lăng kính của chính mình như hiện nay. Một lăng kính mà vì nó, đã xảy ra bao tai ương, hoạn nạn, khổ đau ở thế giới này.

Cái gọi là “một vị giải thoát” đó, là giải thoát khỏi tham, sân, si. Điều đó không chỉ cần thiết trong đời sống của người muốn xuất thế mà cả với người đi tìm hạnh phúcthế gian. Không phải mọi tệ nạn hiện nay đang xảy ra trong xã hội đều do tham, sân, si? Do si mà không thấy được luật Nhân quả đang chi phối thế giới này, nên tham dục xảy ra không ngừng, sân hận phát triển tối đa. Tham nhũng, thực phẩm bẩn, hàng gian, thuốc giả v.v… đều bắt nguồn từ lòng tham và sự si muội của con người. Cũng do tham, sân, si mà con người lao vào tà hạnh, rượu chè, cờ bạc v.v… rồi sinh ra cướp giật, giết hại lẫn nhau. Quan không ra quan, dân không ra dân, Tăng không ra Tăng, tục không ra tục... đều bắt nguồn từ tham-sân-si. Cho nên, “Pháp và luật của ta chỉ có một vị là giải thoát”, không phải chỉ dành cho hàng xuất thếhạnh phúc thế gian cũng cần đến nó. Cái gọi là thanh liêm, tiết kiệm, chí công vô tư, vì người v.v… chính là hình thức giúp quan dân chừa bỏ tham, sân, si. Tùy mức độ trừ bỏ tham, sân, si mà được an vui ít hay nhiều, xã hội theo đó mà an bình nhiều hay ít. Mọi thứ đều tùy vào sự lựa chọn của mỗi người. Phật chỉ là người dẫn đường.

Nói chung giáo pháp của Phật, nhất là phần thâm sâu, không chỉ đòi hỏi hành giả phải trừ bỏ tham sân mà cần thời gian chuyên tâm cho việc tịnh tâm mới trực nhận được, nên việc từ bỏ các tạo tác bận rộn ở đời là điều bắt buộc. Đó là lý do vì sao chúng ta thấy có một bộ phận gần như không tham gia mọi sinh hoạt ở đời hoặc tham gia rất ít. Song dù dưới hình thức nào thì việc lợi ích nhân sinh luôn được đặt lên hàng đầu với người Phật tử chân chính.
Chân Hiền Tâm
________________
(1) Kinh Trung bộ tập 3, bài kinh số 115, kinh Đa giới, phần Duyên khởi. Nguyên bản: “Nếu cái này có, cái kia có. Do cái này sanh, cái kia sanh. Nếu cái này không có, cái kia không có. Do cái này diệt, cái kia diệt”. HT.Thích Minh Châu dịch.
(2) Đây hỏi “Sao gọi là tối?” thì câu trả lời đáng lẽ phải là “Sáng là nhân (duyên), tối là quả”. Vì trong điều kiện chỉ có hai duyên, một duyên đã là nhân thì duyên kia phải là quả. Nhưng câu trả lời lại là “Tối là duyên”. Đó là do phần sau còn câu “Dùng tối để hiển sáng”. Khi nói “Dùng tối để hiển sáng” thì phải hiểu tối là nhân (duyên) khiến có cái quả là sáng. Thành phần mở đầu tuy có hai câu thấy không can hệ nhau, nhưng thật ra là có can hệ trong cả câu nói của Tổ. Câu “Sáng là nhân” dùng trả lời câu “Dùng sáng để hiển tối”. Câu “Tối là duyên” dùng trả lời cho câu “Dùng tối để hiển sáng”.
(3) Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục. Lời của Tuệ Trung dạy Trần Nhân Tông. HT.Thích Thanh Từ dịch và giảng.
(4) Lục tổ Huệ Năng, Pháp bảo đàn kinh, phẩm Hành do. HT.Thích Thanh Từ dịch và giảng.
(5) Hình thành thế nào, có thể nghiên cứu ở luận Đại thừa khởi tín và kinh Lăng-nghiêm.
(6) Luận Đại thừa khởi tín, Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Chân Hiền Tâm việt dịch và giải thích.
(7) Thành duy thức luận, HT.Thích Thiện Siêu dịch và chú, Viện NCPHVN ấn hành năm 1996, tr.456.
(8) Kinh Lăng-già tâm ấn, Thiền Sư Hàm Thị trực giải, HT. Thích Thanh Từ việt dịch.
(9) Phần Ngũ ấm ma trong kinh Lăng nghiêm nêu rõ về các loại kiến chấp này.
(10) Bồ-tát Long Thọ, Trung luận, phẩm Quán pháp.
(11) HT.Thích Trí Tịnh dịch.
(12) HT.Thích Thanh Từ dịch, HT.Thích Minh Châu hiệu đính.
(13) Kinh Tương ưng tập V, Đại phẩm, chương XII: Tương ưng Sự thật.
(14) Thiền đốn ngộ, Thiền tông Vĩnh gia tập, HT.Thích Thanh Từ dịch và chú.
(15) HT.Thích Thanh Từ dịch, HT.Thích Minh Châu hiệu đính.
(16) Kinh Lăng-già tâm ấn, phẩm Nhất thiết Phật ngữ tâm, Đại sư Hàm Thị trực giải, HT.Thích Thanh Từ Việt dịch.
(17) Thiền sư Trung Hoa tập 1, Thiền sư Hoài Hải Bá Trượng, HT.Thích Thanh Từ soạn dịch.
(18) Bồ-tát Mã Minh, luận Đại thừa khởi tín, Chân Hiền Tâm Việt dịch và giải thích.
(19) Sđd.
(20) Kinh Pháp hoa, HT.Thích Trí Tịnh Việt dịch.
(21) https://news.zing.vn/tuong-chung-co-gi-khong-tu-hinh-toi-pham-tham-nhung-post543409.html.
(22) Kinh Tăng chi bộ 4, chương Tám pháp, phẩm A-tu-la, HT.Thích Minh Châu dịch.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15518)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13208)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19365)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24631)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15745)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37831)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13480)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13106)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17182)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13206)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17390)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21641)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13222)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14408)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12819)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13659)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28631)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23403)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34384)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28887)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32188)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11329)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12006)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26293)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17378)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14526)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34486)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13114)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12281)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13422)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40515)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26946)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14463)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13257)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13463)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12540)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13155)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12318)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11799)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12576)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17668)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12209)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12756)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18441)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14299)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12998)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11325)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12153)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13467)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10840)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11082)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10290)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28909)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25285)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26854)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25775)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18678)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23042)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34553)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32191)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant