Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tổng Quan Về Tuệ Học

29 Tháng Mười Một 201919:57(Xem: 4676)
Tổng Quan Về Tuệ Học

Tổng Quan Về Tuệ Học 

Thích Trung Định


Tổng Quan Về Tuệ Học

Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn. Do đó, trí tuệ chiếm vị trí vô cùng quan trọng trong đạo Phật. Vì đạo Phậtđạo trí tuệ . Người ta thường nói rằng trong trí tuệ “Phật giáo cung cấp giải pháp riêng của mình về những bí ẩ n sâu xa nhấ t của vũ trụ và muốn theo đó để tìm hiểu quan điểm mới của nó”.

Trí tuệ được công nhận là một trong các khoa và là một trong những năng lực để tu tập đạt được mục tiêu giải thoát của Phật giáo. Đây cũng là bước thứ ba và là bước tiên quyết nhất trong con đường tam vô lậu học dẫn tới mục tiêu giải thoát. Một người muốn cắt đứt gốc rễ của sanh tử luân hồi thì điều tiên quyết là phải có trí tuệ. Gốc rễ của sanh tử luân hồivô minhtham ái, trong khi trí tuệ có khả năng cắt đứt sự ràng buộc của tham ái và đâm thủng màn vô minh che lấp chơn tánh con người. Do vậy, tất cả những lời dạy của Đức Phậtđể dành cho những người thấy và biết (có trí tuệ) chứ không phải cho những người không thấy và không biết. Trí tuệ được xem là nhân tố cần phải được hoàn thiện. Bởi tất cả chúng sinh muốn trở thành những vị Phật giác ngộ và được tất cả các truyền thống Phật giáo thừa nhận thì phải thành tựu Trí tuệ Ba-la-mật để đạt được Phật quả. Một bộ phận lớn của văn học được gọi là Văn học Bát-nhã được cấu thành trong tiếng Phạn vào những thế kỷ sau Công nguyên nhằm mục đích mô tả nhận thức Phật giáo về bản chất thật tại của Bát nhã Bala-mật. Đức Phật tuyên bố rằng giáo lý của Ngài không dựa trên truyền thống thánh thiện và có thẩm quyền mặc khải Vệ-đà, nhưng nó chứa đựng cái mà Ngài tự biết và nhìn thấy. Phương thức cụ thể của sự hiểu biết và nhìn nhận ở đây được mô tả như là tuệ. Chúng đệ tử của Phật cũng không được chấp nhận những lời giảng dạy bằng đức tin mà bằng trí tuệ soi xét. Thành ra, Tuệ học được coi là cần thiết để thực hiệnthành tựu chân lý giải thoát, giác ngộ trong Phật giáo.

Trí tuệ là bước cuối cùng và cao nhất trong Tam vô lậu học (Giới, Định, Tuệ ), dẫ n đế n mụ c tiêu giả i thoát. Sở dĩ Tuệ là bướ c cuối cù ng cao nhấ t trong Tam vô lậu học là vì khi một hành giả thực hà nh thiề n định, đạt đến trạng thái nhất tâm sâu lắng thì luôn có sự xuất hiện của hỷ , lạc và tâm xả . Nhữ g cảm giác nà y có thể thuyết phục các thiền giả không thận trọng mà vị ấy đã an trú trong sự hỷ lạc từ nội tâm và cho đó là cứu cánh cuối cùng. Tuy là đạt đến những trạng thái cao như vậy, thực ra đó mới chỉ là sự cảm nhận từ ý thức, chứ không phải là minh sát tuệ để có thể cắt đứt sự trói buộc của vòng sanh tử luân hồi. Các trạng thái cao của thiền định tạo nên nghiệp thiện, có thể dẫn đến sự tái sinh trong sắc giới hoặc vô sắc giới tùy thuộc vào các cấp độ thiền địnhhành giả đạt được. Nếu không có sự phân biệt sâu sắc của trí tuệ, nghiệp thiện này cuối cùng sẽ hết, do đó chúng sanh sẽ tái sinh trở lại trong tam đồ lục đạo. Đối với con đường thánh đạo giải thoát hoàn toàn đạt đến sự bất sanh bất diệt thì chỉ có trí tuệ mới có khả năng thâm nhập và chứng đạt đến. Do đó, Đức Phật thường ca ngợi trí tuệ như là ánh hào quang, ánh sáng, ánh lửa, ánh chiếu và ánh đèn để soi rọi bóng đêm đen u tối.

Trong Kinh tạng Nikāya, Trí tuệ đượ c đề cậ p xuyên suốt và mô tả nó như nú t thá o gỡ cuố i cù ng để đạt đế n niế t-bàn giả i thoát tối hậu. Trong đó Đức Phật thí dụ trí tuệ với nhiều hình ảnh sinh động tương ứng với những tính năng của nó. Chẳng hạn như trí tuệ là ánh sáng, trí tuệ như con dao. Đó là ánh sáng tối cao vì nó chiếu sáng bản chất thật của sự vật và xua tan bóng tối của sự thiếu hiểu biết. Nó là một con dao sắc bén vì n ó cắt đứt sự chằng chịt của các phiền não và do đó mở ra con đường để giải thoát.

Khái niệm về trí tuệ được mô tả chi tiếtrõ ràng trong Kinh tạng Nikāya và có thể được tóm gọn trong các cụm từ: sự thấy biết rõ ràng, sáng suốttỉnh táo. Và nó được giải thích từ hai khía cạnh trái ngược nhau: Thứ nhất, điều kiện duyên sinh, trí tuệ trong Nikāyas được nhấn mạnh một cách dứt khoát, đó là phát sinh từ điều kiện cơ bản về các nguyên nhân và các điều kiện. Thứ hai, trí tuệ không phải là trực giác, mà là một sự hiểu biết cẩn thậnphân biệt rõ ràng qua các giai đoạn nhất định bao gồm các hoạt động khái niệm chính xác. Trí tuệ là hướng tới các lãnh vực hiểu biết cụ thể. Những lĩnh vực này được biết đến trong các luận thư của văn học Pāli là “đất của tuệ” (tuệ địa, paññābhumi), phải được nghiên cứu kỹ lưỡng và nắm vững thông qua sự hiểu biết khái niệm trước khi nhìn nhận sâu sắc các vấn đề. Niệm vô niệm tức không dựa trên khái niệm mơ hồ mà đi sâu vào bản chất thật của các pháp để nhìn nhận chúng. Để nắm vững đòi hỏi này, chúng ta phải phân tích, phân biệtquan sát. Hành giả phải có khả năng tư duychiêm nghiệm các sự kiện cơ bản trong đời sống nhằm tích lũy và đưa ra những nhận định chính xác về các sự vật hiện tượng. Do đó, sự nhìn nhận chính xác phải thông qua quá trình quan sát, trải nghiệm chứ không phải mù mờ phỏng đoán.

Để trí tuệ tăng trưởng chúng ta phải học và tìm hiểu về Pháp. Quy trì nh nà y tuầ n tự theo cá c bướ c đó là “văn tuệ , tư tuệ và tu tuệ ”. Văn tuệ là nghe từ ngườ i khá c, hay từ sá ch vở ; tư tuệtư duy suy nghĩ về nhữ ng điề u đã họ c; và tu tuệ là á p dụ ng thực tậ p. Trí tuệ đích thực trong Phật giáo có khả năng nhìn vào bản chất thật của các hiện tượng. Trí tuệ sẽ nhìn nhận thấy chúng qua ba đặc điểm của vô thường, khổ, và vô ngã.

Tuệ (tiếng Pāli là paññā, tiếng Skt. là prajnā) có nghĩa là sự nhận thức, phân biệt, nhưng sự nhận thức phân biệt này khác với sự nhận thức phân biệt thông thường, bởi nó bắt đầu từ gốc động từ trong tiếng Skt. jñā là nhận biết, thấy rõ, thấu hiểu tường tận. Nó được dịch ra là “trí tuệ ”, “giá c ngộ”, “minh sát tuệ”, “hiểu biết rõ ràng” hoặc “kiến thức trực quan”. Trong tiếng Pāli, chế độ nhận thức cụ thể liên quan được phân biệt bởi việc sử dụng các tiền tố pa (Skt. pra), thể hiện một ý nghĩa nhận thức khác biệt rõ ràng từ đó chúng ta có thể so sánh đối chiếu với các loại nhận thức khác như thức tri (vinñāṇa), tưở ng tri (saññā), thắ ng tri (pariññā) và liễ u tri (abhiññā) nơi các tiền tố tương ứng là vi-sam-pari- và abhi. Phật giáo nguyên thủ y sử dụng cả hai hình thức nội dung Trí tuệ (paññā) và Tuệ tri (pajanati) xuất hiện thường xuyên trong một loạt các ngữ cảnh. Việc sử dụng nội dung như vậy ngụ ý rằng trí tuệ nhìn nhận sự vật là vô thường, vô ngã, không như nhận thức thông thường cho rằng các pháp là thực hữu. Một người được gọi là người trí tức người ấy có cái nhìn đặc biệt, cái nhìn thấu suốt và hiểu biết rõ ràng bằng tuệ giác. Ngài Phật Âm (Buddhaghosa), luậ n sư Phật học nổ i tiế ng, khi giải thích thuật ngữ này đã nói rằng nhận thức được gọi là Trí tuệ trong ý nghĩa nó là hoạt động của nhậ n thứ c theo con đườ ng Trí tuệ . Giả i thoá t đạ o luậ n (Vimuttimagga) nó i rằ ng “kiến thức đặc biệt” kết hợp với ý thức đạo đức (kusalacitta) được gọi là Trí tuệ . Trí tuệ là sự hiểu biết. Đó là biết (jānana) trong một chế độ đặc biệt khá c vớ i tưở ng tri (sañjānana) và thứ c tri (vijānana).

Theo từ điển Pali- English Dictionary của T. W. Rhys Davids và William Stede, trí tuệ là sự thấu hiểu, bao gồm tất cả những gì cao hơn của sự nhận thức. Trí tuệ nhận ra chân lý, lý do, trí tuệ, hiểu biết, kiến thức, minh sát. Trong khi thuật ngữ Bát-nhã theo định nghĩa của SanskritEnglish Dictionary cũng được dịch là trí tuệ (wisdom), sự hiểu biết (knowledge), phân biệt hay trí xét đoán (discrimination), sự quán sát (judgment). Jñā có thể được dịch là “thức” (consciousness), “kiến thức”, hay “sự hiểu biết” (understanding), trong khi pra là một thiết bị khuếch đại có thể được dịch là “cao hơn”, “lớn hơn”, hoặc “tối cao”, hay “được sinh ra hoặc mọc lên”, tức nói đến cái gì đó tự sinh ra và nhận biết ở một mức độ cao hơn.

Trong thuật ngữ Pāli từ paññā có nguồn gốc từ ñā (Skt: jñā), có nghĩa là “biết”, nhờ tiền tố pa (Skt: pra), mà chỉ đơn thuầncung cấp cho các gốc có nghĩa là một sắc thái năng động hơn. Vì vậy, paññā/prajñā có nghĩa là biết hoặc hiểu biết, không phải là chiếm hữu, như là một hành động: hành động của biết, hành động của sự hiểu biết, hành động sáng suốt. Trong Pāli, các động từ prajānāti, (tuệ tri), truyền đạt ý nghĩa này có hiệu quả hơn danh từ trí tuệ tương ứng. Tuy nhiên, ý nghĩa của trí tuệ là một loại hiểu biết cao hơn những gì xảy ra khi người ta chỉ hiểu biết đơn thuần. Ví dụ, một đoạn văn khó hiểu trong sách giáo khoa kinh tế hoặc những hàm ý của một lập luận pháp lý. Trí tuệ biểu hiện sự hiểu biết nảy sinh qua việc đào luyện tâm linh, làm sáng tỏ bản chất thật sự của sự vật, và đạt đến cực điểm trong sự tịnh hóa và giải phóng tâm trí. Vì lý do này, bất chấp những hạn chế của nó, thuật ngữ “trí tuệ” quen thuộc vẫn được sử dụng.

Theo Sangharakshita, Trí tuệ Bát-nhã có ý nghĩa chính xác và khá đặc biệt. Nó xuất phát từ một ngữ căn jñā trong tiếng Phạn có nghĩa là “biết” mà còn được tăng cường với một tiền tố pra nhấn mạnh thêm ý nghĩa. Bát-nhã không chỉ là kiến thức; nó là kiến thức tối cao hoặc thậm chí kiến thức bậc nhất, kiến thức tuyệt hảo, kiến thức trọng tâm. Nhưng kiến thức về những gì? Các đối tượng của tri thức tối cao này là gì? Câu trả lời cho điều này được thấy xuyên suốt tất cả các nền văn học Phật giáo, trong tất cả các truyền thống Phật giáo, là khá rõ ràng. Bát-nhã có nghĩa là kiến thức về thực tại; nó có nghĩa là kiến thức của sự vật như chúng thật sự là, ở độ sâu tối hậu, chiều kích siêu phàm cuối cùng của chúng.

Trí tuệ Bát-nhã còn được giải thí ch là cái nhìn sâu sắc về bản chất thật của sự vật, đó là bản chất của vô thường, đau khổ, vô ngã, và không tánh.

Theo đó , Tuệ vô lậu học là: “Hiểu một cách đúng đắn về khổ thánh đế, tập thánh đế, diệt thánh đế và đạo thánh đế, như vậy gọi là tuệ học vô lậu”. Kinh Tương ưng bộ tập V cũng định nghĩa tuệ học vô lậu như là sự quán triệt và thấy biết “thế nào là khổ, nguồn gốc của khổ, sự diệt khổ và các phương pháp để diệt tận khổ”.

Kinh Phật tự thuyết lại định nghĩa tuệ học chính là “… sự hiểu rõ về giáo lý Nhân duyên hay Duyên khởi”. Sự nhận thức được nguyên lý “Do cái này có mặt nên cái kia có mặt. Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt. Do cái này sinh nên cái kia sinh. Do cái này diệt nên cái kia diệt”.

Định nghĩ a này cho thấy trí tuệ không phải là đối tượ ng quá siêu việt hay thần bí , mà nó bắt nguồn từ nhữ ng pháp căn bản, chơn chánh mà hiện khởi. Vì vậ y, Phật giáo Nguyên thủ y thườ ng tránh cá ch giải thích mang tí nh chuyên chế về bả n chấ t luậ n đối với khái niệm Trí tuệ , dẫn đến vị trí bản thể học, xa rờ i thự c tế . Do đó một đị nh nghĩ a xác đá ng hơn từ Trung bộ kinh đị nh nghĩ a Trí tuệtuệ tri: “Như thế nào được gọi là Trí tuệ? Vì có tuệ tri, vì có tuệ tri, nên được gọi là Trí tuệ. Có Tuệ tri gì? Có Tuệ tri: đây là khổ, có Tuệ tri: đây là khổ tập, có Tuệ tri: đây là khổ diệt, có Tuệ tri: đây là con đường đi đến khổ diệt. Vì có tuệ tri, có tuệ tri nên được gọi là Trí tuệ” (Trung bộ, I-43). Như vậy Trí tuệ là biết với tuệ tri, biết sự kiện, biết sự kiện tập khởi, biết sự kiện đoạn diệt, biết con đường đưa đến sự kiện đoạn diệt. Mở rộng thêm định nghĩa này là tuệ tri vị ngọt, tuệ tri sự nguy hiểm và tuệ tri sự xuất ly của các pháp, và do vậy nói chung có tất cả bảy lãnh vực cần phải tuệ tri, đối với một pháp, hay đối với bất cứ sự kiện nào, dầu tốt hay xấu cũng vậy. Như lấy dục làm đối tượng, thời phải tuệ tri dục, dục tập khởi, dục đoạn diệt, con đường đưa đến dục đoạn diệt, vị ngọt của dục, sự nguy hiểm của dục và sự xuất ly ra khỏi dục. Biết như vậy mới gọi là tuệ tri.

Một định nghĩa nữa của Trí tuệ cũng được đề cập. “Thế nào là tuệ lực? Ở đây vị Thánh đệ tửtrí tuệ, thành tựu sự trí tuệ về sanh diệt, với sự thể nhập bậc Thánh vào con đường đoạn tận khổ đau”. Danh từ Pāli chuyên môn là Ariyāya nibbedhikāya sammà-dukkha-kkhayagāminiyā (D. III, 237). Ở đây chữ Nibbedhikāya có hai cách dịch, một là sự thể nhập, đi sâu vào con đường có khả năng đoạn tận khổ đau, tức là có khả năng giải thoát khỏi đau khổ. Cách dịch thứ hai là có khả năng đâm thủng dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, hay tham, sân, si để cuối cùng đoạn tận khổ đau. Như vậy trí tuệ, ngoài khả năng tuệ tri sự tập khởi và sự đoạn diệt còn có khả năng đâm thủng vô minh để cuối cùng được giải thoát. Một định nghĩa nữa lại càng làm rõ rệt hơn cái công năng diệu dụng của trí tuệ: “Trí tuệ có nghĩa là thắng tri (abhinnāttha), có nghĩa là liễu tri (parinnattha), có nghĩa là đoạn tận (pahānattha)”. Như vậy, trí tuệ có khả năng thắng tri, tức là biết với thiền định, và thiền định đây là bất động thức tư. Lại có khả năng liễu tri với sự hiểu biết rốt ráo trọn vẹn; và cuối cùng có khả năng đoạn tận được các lậu hoặc, dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, đoạn diệt được tham, sân, si, chấm dứt khổ đau.

Truyền thống Đại thừa Phật giáo phát triển khái niệm Bát-nhã với các hình thức đa dạng của hình ảnh tôn giáo. Bát-nhã Ba-la-mật đã được tuyên xưng là mẹ của chư Phật ba đời và được nhân cách hóa thành nữ thần Bát-nhã. Một giải thích rộng lớn hơn nhiều và tưởng tượng sâu sắc hơn là đưa ra các khái niệm về Bát-nhã trong cách hiểu về Phật phổ quát. Học thuyết tam thân Phật (pháp thân, báo thânứng hóa thân) và giải trình triết học về học thuyết tánh không Bátnhã của Phật giáo Đại thừa hoàn thiện về sau như là cách mô tả về trí tuệ một cách hoàn chỉnh nhất. Các vị Bồ-tát Văn-thù và Quán Thế Âm đã được xem nhưbiểu tượng của Trí tuệ Bát-nhã.

Theo quan điểm của Phật giáo Đại thừa, các pháp là không tánh, nghĩa là tất cả các pháp đều không có một thực thể cố định, bất biến hay tồn tại độc lập riêng biệt. Khi chúng ta nhìn thế giới sự vật hoặc con người với cái nhìn trí tuệ thì thấy tất cả chúng đều là ảo tưởng, không thật. Chúng chỉ là biến tướng biểu hiện ra, không có thực thể cố định độc lập. Duy thức gọi đó là Biến kế sở chấpY tha khởi tự tánh. Thật tướng của các pháp là vô tướng, vô ngã, vô nhân, vô chúng sanhvô thọ giả như kinh Kim cang đã trình bày. Chỉ có trí tuệ Bát-nhã mới nhìn thấy rõ thật tướng của vạn pháp. Đó là duyên sinh tính, duyên khởi tính tương ứng với lời dạy trong Kinh tạng Nikāya rằng: “Ai thấy duyên khởi là thấy pháp, ai thấy pháp là thấy Như Lai”.

Tóm lại, thuật ngữ trí tuệ trong Phật giáongôn ngữ thông thường được sử dụng qua mọi thời đại. Tuy nhiên, ý nghĩa nhận thức của nó đã được sửa đổimở rộng trong Phật giáo để phù hợp với các mục tiêu của nó. Trong kinh điển của Phật giáo, nó được sử dụng theo nghĩa hiểu biết toàn diện về bản chất của tất cả các hiện tượng dẫn đến sự chuyển đổi đạo đức lâu dài của cá nhân. Trí tuệ hoàn toàn khác với giác quan trực giác về sự nhận thức độc lập. Đúng hơn, trí tuệ là sự soi rọi vào tận cùng bản chất của sự vật hiện tượng như là chân lý cuối cùng và nguồn gốc của tất cả sự tồn tại. Một số cố gắng sau này trong các truyền thống Phật giáo giải thích về ý nghĩa của trí tuệ như là bản chất thực tại cuối cùng, là siêu tuyệt vượt tầm hý luận, ly tứ cú, tuyệt bách phi… Tuy nhiên, theo Phật giáo Nguyên thủy, trí tuệ chỉ đơn thuần là một cách hiểu biết mọi thứ chứ không phải là một trực giác hợp lý liên quan đến việc nhìn thấy hoặc trải nghiệm cái gì đó độc đáo, siêu hình và siêu nghiệm.

mục tiêu cuối cùng của giáo dục Phật giáo đó là trí tuệ, mà Đức Phật đã dùng như là phương tiện trực tiếp đưa tới sự giải thoát cứu cánh, như là chìa khóa mở cánh cửa Niết-bàn bất diệt, và cũng như là hướng dẫn chính xác đưa tới sự thành tựu việc thích ứng với những thách thức của đời sống thế tục. Trí tuệ như thế là tối thượng của toàn bộ hệ thống giáo dục Phật giáo, và tất cả những bước căn bản trong hệ thống giáo dục Phật giáo nên ăn khớp với đức tính tối thượng này. Nghĩa là với những bước căn bản này thì giáo dục đạt được sự hoàn thiện, và rằng nó trở nên rực rỡ trong ý nghĩa thật và sâu xa nhất, như được dạy bởi Đức Phật trong đêm Ngài thành đạo, “Trong Ta khởi lên tri kiến, hiểu biết, trí tuệ, liễu ngộ, và ánh sáng”.

Tài liệu tham khảo:
1. Encyclopaedia Of Buddhism; quyển 8; Sri Lanka; 1962.
2. Bhikkhu Bodhi; In the Buddha Words, An Anthology of Discourses from the Pāli Canon; Wisdom Publications; Boston; 2005.
3. T.W. Rhys Davids & William Stede; Pali- English Dictionary; Motilal Banarsidass, Delhi, 2003.
4. M. Monier Williams; A Sanskrit-English Dictionary; Motilal Banarsidass, Delhi, 2002.
5. Sangharakshita; Wisdom beyond Words, The Buddhist Vision of Ultimate Reality; Motilal Banarsidass; Delhi; 2006.
6. Kinh Tăng chi bộ; Hòa thượng Thích Minh Châu dịch.
7. Kinh Tương ưng bộ; Hòa thượng Thích Minh Châu dịch.
8. Kinh Trung bộ; Hòa thượng Thích Minh Châu dịch.

Thích Trung Định
Văn Hóa Phật Giáo số 333 ngày 15-11-2019
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15516)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13207)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19360)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24618)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15740)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37824)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13477)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13094)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17178)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13203)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17386)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21636)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13218)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14401)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12814)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13655)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28617)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23398)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34378)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28883)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32185)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11328)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12003)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26288)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17374)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14524)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34479)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13111)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12278)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13412)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40512)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26940)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14458)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13253)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13454)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12536)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13148)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12313)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11790)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12572)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17661)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12206)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12752)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18435)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14290)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12995)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11323)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12151)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13466)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10835)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11074)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10289)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28894)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25281)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26850)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25769)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18673)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23036)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34538)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32181)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant