Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tư Tưởng Trung Đạo Qua Bát Bất

11 Tháng Sáu 202012:39(Xem: 5703)
Tư Tưởng Trung Đạo Qua Bát Bất
Tư Tưởng Trung Đạo Qua Bát Bất  

Thích Nữ
Vạn Duyên

Tư Tưởng Trung Đạo


Mở đầu Trung luận, Bồ-tát Long Thọ đã sử dụng Bát bất duyên khởi để hệ thống hóa tư tưởng Tánh không trong kinh Bát-nhã. Từ cơ sở này, ngài phân tích làm sáng tỏ hệ thống triết học của mình1.

Mục tiêu của luận thuyết này là “phá tà hiển chánh”, do đó, những nỗ lực của Trung luận là nhằm phê bình các quan điểm sai lầm của ngoại đạo và ngay cả một số bộ phái Phật giáo như Độc Tử bộ, Hóa Địa bộHữu bộ. Ở bài viết này, tác giả xin trình bày một vài điểm về Bát bất trong Trung luận.

Bất sanh bất diệt

Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt. Trung luận đã đề cập như sau:


Có người hỏi, vì sao tạo luận này. Đáp: “Có người cho rằng vạn vật từ đại tự tại thiên sanh, có người nói từ (vĩ nữu) thiên sanh, có người nói từ hòa hợp sanh, từng thời sanh, nói từ thể tánh sanh, nói từ tự nhiên sanh, hay nói từ vi trần sanh….”2. Như vậy Bồ-tát Long Thọ đưa ra “bất sanh bất diệt” là để phá những kiến chấp trên. Trong Trung luận, Long Thọ cho rằng:

“Các Pháp không tự sanh
Không từ cái khác sanh
Từ cả hai không nhân
Do vậy biết không sanh”3.

Theo pháp Duyên khởi thì các pháp khôngtự tánh. Tại vì không có tự tánh nên tha tánh cũng không. Vì nhân tự tánh mới có tha tánh, nên nếu tự tánh không có thì tha tánh cũng không có.

Khái niệm này ta cũng có thể tìm thấy nơi kinh tạng Pāli. Kinh Mật hoàn nói: "Chư Hiền, do nhân lỗ tai và các tiếng, nhĩ thức khởi lên, do nhân lỗ mũi và các hương, tỷ thức khởi lên, do nhân lưỡi và các vị, thiệt thức khởi lê, do nhân thân và xúc, thân thức khởi lên, do nhân ý và các pháp, ý thức khởi lên. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc nên có các cảm thọ. Những gì có cảm thọ thời có tưởng, những gì có tưởng thời có suy tầm, những gì có suy tầm thời có hý luận"4. Theo đoạn kinh này, vì có sự tiếp xúc giữa mắt và sắc mà nhãn thức sanh. Như vậy, khi một pháp sinh khởi cần phải có đủ các duyên khác. Nếu như các pháp không cần duyên, thì con mắt phải sanh con mắt, sắc phải sanh sắc, nhưng ở đây kinh nói “duyên mắt với sắc phát sanh ra nhãn thức”.

Theo Bồ-tát Long Thọ:

Nếu quả từ duyên sanh
Duyên ấy không tự tánh
Từ không tự tánh sanh
Sao lại nói duyên sanh


Hay

Quả chẳng từ duyên sanh
Chẳng từ phi duyên sanh
Quả ấy vốn không sanh
Duyên phi duyên cũng không5.


Ở đây Bồ-tát Long Thọ muốn bác bỏ cái nhìn của hàng phàm phu, cho là nhân sinh ra quả, hoặc quả sinh ra nhân. Nói quả sinh ra từ nhân, nhưng nhân lại không có tự tánh. Nếu nhân khôngtự tánh thì nhân ấy sẽ bị thay đổi. Từ nhân thành cây, cây lại ra quả, quả lại có nhân, liên tục thay đổi. Thế thì quả sinh ra gì? Nếu nói quả sinh, thì quả phải sinh ra quả, chứ sao lại sinh ra cây, rồi từ cây mới có quả. Cả một chiều dài từ nhân đến quả, rồi quả về với nhân, là một vòng sinh và diệt liên tục, không có trạng thái nhất định của sanh và diệt. 

Bởi vì “Các pháp không tự tánh, không có tướng thật có, nên việc nói thực tướng, thì tướng thực như vậy chẳng đúng6. Do đó Bồ-tát Long Thọ nói là bất sanh. Các pháp khôngtự tánh, không có tự tánh thì không có tướng chân thật, nên nói có thật tướng là không đúng. Vì cái gọi là sanh diệt đó chỉ là một hiện tượng theo thấy biết của chúng ta. Nhìn trên mặt hiện tượng của pháp, ta thấy có con người hiện hữu ở đời, sống một thời gian trên cõi đời, để rồi một ngày nào đó phải ra đi, và khi chết đi gọi là mất. Nhưng theo Trung luận, ta thấy không có gì diệt mất, vì tất cả các pháp vốn là không:

Chưa từng có một pháp
Không từ nhân duyên sanh
Thế nên tất cả pháp
Không gì chẳng phải không7.


Vì các pháp là duyên sinh, nên mọi hiện tượng giống như trong giấc mộng, ảo ảnh phù du, dường như có nhưng thật là không có, như ảnh chiếu qua gương8. Đó là giáo lý duyên khởi của Đức Phật, được Bồ-tát Long Thọ triển khai nhằm mục đích đả phá những kiến chấp sai lầm vào thời của ngài. 

Bất thường bất đoạn

Vì sao Bồ-tát Long Thọ nói Bất thường bất đoạn? Vấn đề này liên quan đến quan điểm chấp thường và chấp đoạn mà trong các kinh đã đề câp. Trong kinh Phạm võng ta thấy: “Người ấy nói: Bản ngãthế giới là thường trú, bất sanh, vững chắc như đảnh núi, như trụ đá, còn những loại hữu tình kia thì lưu chuyển luân hồi, chết đi sanh lại, tuy vậy, chúng vẫn thường trú9. Và trong kinh Tệ Tú có nói: “Bà-la-môn Tệ Tú là người có tà kiến, chủ trương thuyết hư vô ông cho rằng: Không có thế giới khác. Không có loài hóa sanh. Không có quả báo của tội phước”. Đây là một trong những dị kiến thuộc trường phái chấp đoạn, chủ trương thuyết đoạn10.
Hai đoạn kinh vừa dẫn là những kiến chấp của ngoại đạo được nêu ra vào thời Đức Phật nhưng Đức Phật đã không trả lời. Tuy nhiên với Bồ-tát Long Thọ thì ngài cho rằng “chẳng thường, chẳng đoạn”. Như vậy Long Thọ phủ nhận cả hai11. Ở đây người viết xin dẫn lại lời giảng giải của HT.Thích Thanh Từ để làm sáng tỏ vấn đề này.
Hỏi: Nếu chẳng diệt thì nên thường?
 
- Đáp: Chẳng thường vì cớ sao? Vì thế gian mắt thấy vạn vật chẳng thường, như khi mầm lúa nảy sanh thì hạt giống bị biến hoại, thế nên chẳng thường. Vậy thì mất cái gì hạt lúa ư hay là mất mầm lúa, nếu như không có hạt lúa thì mầm lúa có sanh không?12 Nếu như nói thường thì hạt lúa phải thường còn mãi, chứ sao lại thành mầm lúa, nếu hạt lúa đã thành mầm lúa, thì đã có sự thay đổi thì sao gọi là thường. 
 
* Hỏi: Nếu không thường thì đoạn? 
 
- Đáp: Không đoạn. Vì sao? Vì thế gian mắt thấy vạn vật không đoạn như hạt lúc nảy mầm từ cây lúa, thế nên không đoạn, nếu đoạn thì không có sự tương tục13.
Theo kinh Mi Tiên vấn đáp thì: “Thời gian thường trải qua ba thì: quá khứ, hiện tại, vị lai. Quá khứ thì vô thỉ (không có khởi đầu) vị lai thì vô chung (không có chấm dứt), nên nói quá khứ, vị lai đều vô cùng, vô tận, còn hiện tại thì chỉ là cái chớp mắt thoáng trôi, đại vương nên có ý niệm về thời gian như vậy. - Cả ba thì quá khứ, hiện tại, vị lai tức là thời gian, và thời gian này luôn luôn hiện hữuchi phối tất cả hữu tình có phải vậy không thưa Đại đức? - Có khi có, có khi không tâu Đại vương14. Ở đây ngài Mi Tiên muốn nói rằng quá khứ, vị lai thì không có điểm khởi đầu cũng không có điểm kết thúc, hiện tại thì thoáng trôi qua. Bởi vì thời gian không có điểm khởi đầu và không có điểm kết thúc, nên kinh Mi Tiên vấn đáp lại nói: “Thời gian tối sơ của một chúng sanh chẳng thể tìm được tâu Đại vương. Vì sao? Ví dụ trứng gà ấp nở ra con15. Mọi pháp đều như thế, không có điểm khởi đầu cũng không có điểm kết thúc, như bánh xe luân hồi không có điểm dừng, xoay vần mãi không ngừng nghỉ. Và cũng do vậy mà Trung luận nói: “Từ hạt giốngtương tục, từ tương tục mà có quả, trước hạt giống sau có quả, không đoạn cũng không thường”. Hay: “Từ khởi tâm ban đầu, tâm tâm tương tục sanh, từ đó có kết quả, thời không có tương tục”16.
Bất nhất bất dị 

thời kỳ Phật giáo bộ phái, Độc Tử bộbộ phái chủ trương có thần ngã, có ngã thực hữu. Ngã ấy “phi tức phi ly ngũ uẩn”; và họ lấy ví dụ củi và lửa để minh họa. Củi và lửa không phải một, không phải khác, hai thứ nương vào nhau mà có và thật có17. Bồ-tát Long Thọ đã phản bác luận điểm trên:
Nếu lửa có thể đốt
Vậy tác nhântác giả nên là một
Nếu đốt khác cái bị đốt
Vậy lìa khỏi cái bị đốt 
vẫn có cái đốt18
Tuy nhiên:
Lửa không tùy nhiên liệu
Cũng chẳng phải không tùy
Nhiên liệu không tùy lửa
Cũng chẳng phải không tùy19.
Ở đây người viết xin dẫn lại lời giảng giải của Hòa thượng Thích Thanh Từ để làm sáng tỏ quan điểm “bất nhất bất dị” mà ngài Long Thọ đưa ra.
* Hỏi: Nếu như vậy vạn vật là một?
 
- Đáp: Chẳng phải một, vì sao? Mắt thế gian thấy vạn vật chẳng phải một, như hạt lúa không là mầm, mầm không là hạt lúa, nếu như hạt lúa là mầm, mầm là hạt lúa là một, mà thật không phải vậy nên chẳng là một. 
 
* Lại hỏi: Nếu không là một thì là khác?
 
- Đáp: Chẳng khác, vì thế gian mắt thấy vạn vật chẳng phải khác, nếu khác thì làm sao phân biệt hạt lúa, mầm lúa, cây lúa, mà không nói mầm cây, cọng cây, là cây, thế nên không khác 20…

Bất lai bất xuất 

Đến và đi là một trạng thái vận động từ nơi này đến nơi khác, hay từ nơi khác đến nơi này. Khứ lai không phải chỉ dành riêng cho con người, mà tất cả vạn vật đều nằm trong sự vận động đến và đi. Như nước chảy, mây bay, tan tụ theo sự chuyển dịch của chúng cũng gọi là khứ lai21. Nhưng ở đây Trung luận cho rằng không có đến và không có đi.


Theo các nhà Hữu bộ, các pháp thật có trong ba thời quá khứ, hiện tạivị lai, tức là họ chấp các pháp có tự tánh chân thực. Nhưng Long Thọ đã bác bỏ quan điểm của các nhà Hữu bộ, nói rằng: “Đã đi không có đi, chưa đi cũng không đi, lìa đã đi chưa đi, lúc đi cũng không đi22. Nếu nói đã đi thì chúng ta đã đi rồi, còn nếu nói lìa người đi thì làm sao có động tác đi, chưa đi thì không có người đi, vì chưa có động tác đi, còn khi nói đang đi thì hành động đi hay người đi, hay nửa đi nửa dừng lại, thì nó chưa có rời khỏi đã đi và chưa đi. Từ đó Long Thọ cho rằng đang đi cũng không phải đi: “Không đi cũng không phải chưa đi, lúc đi cũng không đi, tất cả không có pháp đi, vì cớ chi phân biệt” 23. Lại nữa: “Nếu quyết định thật có người đi, người ấy không thể sử dụng ba thời đi, nếu không quyết định thật có người đi, thì người đi cũng không sử dụng ba thời đi”. Hay, “Động tác đi quyết định có hay không có, người đi cũng không thể sử dụng ba thời đi, thế nên đi, người đi và chỗ đến đều không có24.

Qua hai kệ ta thấy, nếu quyết đinh có người đi, thì phải có động tác đi. Động tác đi ấy chia làm ba thời, chưa đi, đã đi, đang đi. Người ta không thể sử dụng ba thời đi, vì chưa đi thì không đi, đã đi rồi thì không còn đi nữa, còn đang đi thì phải có người đi và động tác đi, nếu lìa động tác đi và người đi thì pháp không lập được. Cho nên Bồ-tát Long Thọ nói chẳng đến cũng chẳng đi. Sở dĩ chúng ta thấy có đến, có đi là chúng ta thấy trên phương diện hiện tượng; dựa vào thời giankhông gian mà các pháp có sự vận hành đến đi, nếu khôngthời giankhông gian thì đến đi không thể thành lập

Thích nữ Vạn Duyên
_____________
(1) Sa Sa Ki Kyō Go, Taka Sako Jiki Dou, I No Kuchi Tai Jun, Tsuka Moto Kei Dhō - Thích Đạt Hòa (Hán dịch), Thích Hạnh Bình, Phương Anh (Việt dịch), Khái luận lịch sử Phật giáo Ấn Độ, (2013), NXB.TP.Hồ Chí Minh, tr.113.
(2) Thích Thiện Siêu dịch, Trung luận (2001), NXB.TP.Hồ Chí Minh, tr.20. 
(3) Thích Thanh Từ dịch-giảng, Trung Luận, (2008), NXB.Tôn Giáo, tr.49. 
(4) Thích Minh Châu dịch, kinh Trung bộ 1, (2012), NXB.Tôn Giáo, Hà Nội, tr.151.
(5) Bồ-tát Long Thọ, Đỗ Đình Đồng dịch, Trung luận và Hồi tranh luận (2014), NXB.Hồng Đức, tr.32.
(6 Ấn Thuận, Thích Tâm Trí dịch, Luận Trung quán, (2016), NXB.Hồng Đức, tr.87. 
(7) Ấn Thuận, Thích Hạnh Bình-Quán Như dịch, Lược giảng Trung quán luận, (2010), NXB.Phương Đông, tr.118. 
(8) Trịnh Xuân Thuận, Hồ Hữu Hưng dịch, Cuộc đối thoại khoa học và Phật giáo, (2010), NXB.Phương Đông, tr.14. 
(9) Thích Minh Châu dịch, kinh Trường bộ tập 1, (1991), Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành. TP.Hồ Chí Minh, tr.32.
(10) Thích Nguyên Hùng, Tổng quan bốn bộ A-hàm, (2014), Toát yếu kinh Trường A-hàm. NXB.Hồng Đức, Hà Nội. tr.40.
(11) Ấn Thuận, Thích Nguyên Chơn dịch, Diệu nghĩa duyên khởi Tánh không, (2017), NXB.Hồng Đức, tr.120. 
(12 Thích Thanh Từ giảng dịch, Trung luận (2008), NXB.Tôn Giáo, tr.44. 
(13) Thích Thanh Từ giảng dịch, Trung luận (2008), NXB.Tôn Giáo, tr.45.
(14) Thích Giới Nghiêm dịch, kinh Mi Tiên vấn đáp, (2003), NXB.Tôn Giáo, tr.162. 
(15) Ví dụ trứng gà ấp nở ra gà. Gà con thành gà mẹ, lại đẻ trứng, ấp nở ra bầy gà con. Gà con lớn lên đẻ trứng, ấp nở ra gà nữa và cứ thế tiếp tục đến vô cùng vô tận. Đại vương có thể nào tìm ra gà sinh trứng hay trứng sinh gà? Có thể tìm ra nguồn gốc của con gà kia chăng? Kinh Mi Tiên vấn đáp, tr.166.
(16) Thích Thiện Siêu dịch và tóm tắt, Trung luận, (2001), NXB.Tôn Giáo, tr.182. 
(17) Linh Sơn Pháp Bảo Đại tạng kinh, tập 99, số 1588, luận A-tỳ-đạt-ma-câu-xá, (phẩm Phá ngã 29), tr.808. 
(18) Ấn Thuận, Thích Tâm Trí dịch, Luận Trung quán, (2016), NXB.Tôn Giáo, tr.234. 
(19) Bồ-tát Long Thọ, Đỗ Đình Đồng dịch, Trung luận và Hồi tranh, (2015), NXB.Hồng Đức, tr.112. 
(20) Thích Thanh Từ giảng dịch, Trung luận, (2008), NXB.Tôn Giáo, tr.47. 
(21) Ấn Thuận giảng, Thích Tâm Trí dịch, Luận Trung quán, (2016), NXB.Hồng Đức, tr.92. 
(22)  Sđd, tr.96. 
(23) Thích Thiện Siêu dịch và tóm tắt, Trung luận, (2001), NXB.TP.Hồ Chí Minh, tr.34. 
(24) Sđd, tr.39.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9313)
Học Phật Nên Biết - Tác Giả: Pháp Sư Thánh Nghiêm, Pháp Sư Ấn Thuận, Pháp Sư Kim Minh và Phương Khắc Minh; Dịch Việt: Thích Nguyên Thành
(Xem: 11468)
Kinh PHÁP CÚ là một bộ Kinh rất xưa, được xem là kinh Lời Vàng cho những ai có chí nguyện tu tâm, dưỡng tánh để tiến thân trên lộ trình hành đạo giải thoát... Thích Nữ Nguyệt Chiếu
(Xem: 7575)
Lâu nay nói đến các trường Phật họcNam Bộ, người ta thường nghĩ đến Phật học đường Nam Việt, Sài Gòn... Thích Minh Cảnh
(Xem: 12296)
Tự học tiếng Tây Tạng - Tạng Ngữ Hiện Đại - Losang Thonden, Việt dịch: Konchog Kunzang Tobgyal
(Xem: 143649)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 6969)
Với tinh thần đó, trong khi chuyển ngữ ra tiếng Việt thời nay, việc gỡ bỏ ba chữ đó là hoàn toàn hợp lẽ... Hoằng Quảng
(Xem: 11886)
Nội dung tu học Phật pháp nước ta đại bộ phận đều phát xuất từ các kinh điển Hán dịch... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 8631)
Thế giới này là một chuỗi dài nhân duyên nương tựa vào nhau mới bảo tồn sự sống... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 19961)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 9286)
Một bản ngã khi muốn có được cái gì từ người khác thường thích đóng vai một nhân vật nào đó để làm cho nhu cầu của nó được đáp ứng... Eckhart Tolle
(Xem: 10832)
Sắc Tức Là Không, Không Tức Là Sắc - Nguyên tác: Cư sĩ Lý Nhất Quang, HT Thích Thắng Hoan dịch Việt ngữ
(Xem: 13589)
Biểu tượng quốc gia của các nước như Thái Lan, Indonesia, và thủ đô Ulan Bator (Mông Cổ) là hình tượng chim thần Garuda... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 11447)
La Sát là từ được phiên âm của Rakshasa/ Raksha (Sanskrit) là một sinh vật thần thoạihình dáng, tính cách của loài người hoặc quỷ thần bất thiện trong Hindu giáo và Phật giáo... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 9365)
Ở xứ ta, sinh vật thần thoại Khẩn Na La, trong kinh văn Phật giáo là một trong “bát bộ chúng”. Trong mỹ thuật cổ, sinh vật thần thoại Kinnara này được giới nghiên cứu gọi là “Tiên nữ đầu người mình chim”... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 14476)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 7273)
Lâu nay mỗi chúng ta theo đạo Phật nhưng có nhiều điểm nghi ngờ, thấy đạo Phật hình như tiêu cực, đa số chùa chiền đều ở trên núi, cách xa thành thị... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 32498)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 13140)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 21009)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 39153)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 7139)
Trích dịch từ nguyên tác “A Complete Guide to the Buddhist Path” by Khenchen Konchog Gyaltshen, edited by Khenmo Trinlay Chödrön, Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
(Xem: 8975)
Một cơn đau đớn cực độ cũng có thể đưa đến một thể dạng giác ngộ nào đó giúp mình mở rộng tâm thức và con tim hướng vào kẻ khác.
(Xem: 6761)
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18/9/2013 đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni ... Hoang Phong
(Xem: 9771)
Bất nhị là không phải hai hay nhiều, cũng không phải một, mà là vô lượng hay không có số lượng. Số lượng là số đếm chỉ có trong thế giới tương đối, nhị nguyên... Truyền Bình
(Xem: 9482)
Thầy Tuệ Sỹ viết: “Bởi vì con cá dưới lòng sông không làm sao hiểu nổi chuyện kể đầy tính hoang đường của con rùa sau những chuyến du hành trên đất liền..." Đặng Công Hanh
(Xem: 8054)
Cứ một ngàn dải Ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới... Nhụy Nguyên
(Xem: 11803)
Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
(Xem: 16179)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 9622)
Chúng tôi hi vọng tập sách nhỏ này sẽ giúp ích phần nào cho sự tu học của đại chúng. Chúng tôi cũng mong mỏi được các bậc cao minh tôn túc chỉ bảo cho những điều sai sót mà chúng tôi biết chắc chắn là không thể nào tránh khỏi được.
(Xem: 12248)
Theo kinh điển, hai truyền thống Nam truyền và Bắc Truyền đều thừa nhận Đức Phật có đầy đủ 32 tướng quý... Thụy Nguyên
(Xem: 8817)
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đưa người ta đến một sự chuyển hóa toàn triệt và toàn diện cuộc đời sanh tử khổ đau manh mún bởi chia cắt, phân biệt, oán ghét và xung đột của mình bằng cái thấy biết chân thật của Phật... Đương Đạo
(Xem: 15587)
Giáo Khoa Phật Học (3 Tập) Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ, Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc
(Xem: 8017)
Trong khi xem kinh, nên có con mắt trạch pháp để nhận định những lời nào Phật quyền thuyết, những lời nào Phật thật thuyết, những lời nào là chính yếu, những lời nào là phụ yếu...
(Xem: 17862)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 8676)
Lương Vũ Đế, tự Tiêu Diễn, lên ngôi vào năm 37 tuổi, tại vị 49 năm, thọ 86 tuổi. Là vị vua sáng lập nên triều đại nhà Lương (502-556) trong giai đoạn Nam Bắc triều (420-589) của Trung Hoa.
(Xem: 8324)
“Nghiệp” là một danh từ triết học Ấn Độ có trước khi Đức Thích Ca xuất hiện. Ý nghĩa cơ bản của nó là “hành động” hoặc “thói quen”... Nguyễn Xuân Chiến
(Xem: 10541)
Nguyệt San Phật Giáo Việt Nam - Do Tổng hội Phật Giáo Việt Nam xuất bản năm 1956
(Xem: 15856)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 17534)
Danh từ tên gọi của Thủ Lư theo sách Trung Hoa Phật Quang Văn Hóa Thiên Phật Giáo Dụng Ngữ chép: "Thủ lư là lư hương cầm ở trên tay, còn gọi là Bỉnh hương lư, Thủ lư, Đề lư... Thích Tâm Mãn
(Xem: 7944)
Đại chúng bộbộ phái được xem là tiền thân của Phật giáo Đại thừa hoặc là bộ phái đóng góp nhiều trong lịch sử phát triển Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 13023)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 8058)
Phật dạy 20 điều khó không mang một sắc thái bi quan hay chán chường, mà nhằm chỉ dạy chúng ta phải ý thức rằng sự sống này phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống trên nền tảng của nhân quả... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 8618)
Đạo Phậtcon đường dẫn đến an vui giải thoát. Đức Phật là bậc đạo sư, là người dẫn đường chứ không phải là vị thần linh có quyền ban phước giáng họa cho ai... Hoàng Nguyên
(Xem: 9787)
Tam Nguyệt San Hải Triều Âm - Cơ quan phát khởi nền quốc học, Phật học, và Văn hóa Việt Nam do Tổng Vụ Văn Hóa GHPGVNTN chủ trương từ 1973 đến 1975
(Xem: 10363)
Mục đích duy nhấtcuối cùng của con đường học Phật, tu Phật chính là thoát khỏi sinh tử. Trên đường đi tới điểm đích ấy, nền tảng chủ yếu hướng dẫn người tu Phật xuất gia lẫn tại gia không bị lạc lối được xem là sự nghiệp trí tuệ... Đoàn Ánh Loan
(Xem: 23283)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19386)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 10072)
Tuần San Đuốc Tuệ 1965 - Cơ Quan Phát huy tinh thần Phật Giáo, Khai triển văn hóa dân tộc - Miền Vĩnh Nghiêm trong GHPGVNTN 1965
(Xem: 8271)
Đặc San Hoằng Pháp Dharmaduta - Cơ Quan Truyền Bá Chánh Pháp Của GHPGVNTN 1973
(Xem: 24220)
Từ Điển Pháp Số Tam Tạng - Nguyên tác: Pháp sư Thích Nhất Như, Cư sĩ Lê Hồng Sơn dịch
(Xem: 8864)
Thế Thân, tác giả của bộ luận này vốn là một khai sĩ có quá nhiều truyền thuyết và ít nhiều sương khói trùm lên tiểu sử của ngài, đến nỗi cho đến nay, các học giả cũng chưa xác định được Thế Thân là ai.
(Xem: 8474)
Có thể nói rằng quan điểm bình đẳng về khả năng giải thoát tâm linh do Đức Phật đưa ra có một ý nghĩa cách mạng xã hội đáng kể...
(Xem: 8017)
Những hố thẳm triết lý mà Phạm Công Thiện nhắc tới là những hố thẳm tuyệt vọng của triết lý Tây Phương khi chưa tìm ra ngỏ thoát... Quán Như
(Xem: 17778)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
(Xem: 9521)
Hãy hướng tâm vào bên trong và cố gắng tìm niềm vui ở bên trong. Chỉ khi tâm đã được kiềm chế và dẫn dắt đúng hướng thì nó mới có ích cho chủ của nó và xã hội.
(Xem: 8215)
Lôgic học Phật giáo được hình thành trước logic học Aristote gần hai trăm năm. Hệ thống lôgic của Phật giáo "thực tế" hơn và mang một chủ đích hay ứng dụng rõ rệt hơn... Hoang Phong
(Xem: 24382)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 24716)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 8421)
Triết học Trung quán kêu gọi sự chú ý của chúng ta, như một hệ thống đã tạo nên cuộc cách mạng trong đạo Phật và qua đó, toàn lĩnh vực triết học Ấn Độ.
(Xem: 8257)
Giới Thiệu Tóm Tắt Về Bộ Trung Quán Trong Tạng Luận Theo Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu ... Đào Nguyên
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant