Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nghiên Cứu Về Một Vài Trường Hợp Liên Quan Đến Chữ Chánh (正) Trong Bốn Bộ A-hàm.

24 Tháng Sáu 202006:59(Xem: 4955)
Nghiên Cứu Về Một Vài Trường Hợp Liên Quan Đến Chữ Chánh (正) Trong Bốn Bộ A-hàm.
Nghiên Cứu Về Một Vài  Trường Hợp Liên Quan Đến
Chữ Chánh (正) Trong Bốn Bộ A-hàm.

Chúc Phú

CHÂN TÂM VÀ VỌNG TÂM

Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ). Thực tế này không những tồn tại trong văn chương, chữ nghĩa ở nghĩa Ấn Độ thời cổ đại mà còn xuất hiện trong nhiều ngôn ngữthế giới ngày nay. Đó cũng là điều mà chúng tôi đã từng đề cập trong vài chuyên khảo trước đây. Và, ở trong trường hợp này, chúng tôi sẽ trình bày về những cội nguồn ngữ nghĩa có liên hệ đến chữ chánh () trong quá trình phiên dịch kinh điển nói chung.

Những tưởng một chữ với cấu trúc tự dạng giản đơn như chữ chánh (), nhưng nếu tham chiếu với kho tàng dụng ngữ tương đương trong nam Phạn Pāli thì đã có những trường nghĩa cũng như những cách hiểu rất khác biệt. Theo từ điển Pāli của Pāli Text Society (PTS) và từ điển Pāli-Hán (巴漢詞典) của tỳ-kheo Mahāñāṇo thì chữ chánh () có tương đương Pāli là sammā. Theo từ điển Pāli của PTS thì sammā có nhiều nghĩa.

Thứ nhất: đúng sự thật, chính xác, phù hợp, chân chánh, chân thật.

Thứ hai: hoàn toàn, toàn diện, triệt để, hoàn hảo, viên mãn, hết thảy.

Thứ ba: tốt đẹp, khéo léo.

Về phương diện Hán ngữ, trong 51 nghĩa của chữ chánh () theo Hán ngữ đại từ điển, phần lớn đều bao hàm các nghĩa ở trường hợp thứ nhất của chữ sammā mà không đề cập đến hai trường nghĩa còn lại.

Cũng từ lý do này đã tạo nên những ngữ nghĩa đa dạng trong khi chuyển dịch những cú ngữ có thành tố sammā sang những ngôn ngữ khác. Ở đây, chúng tôi xin lần lượt điểm qua một vài trường hợp phù hợp và chưa phù hợp trong lịch sử phiên dịch Phạn-Hán, Phạn – Anh và cả Phạn-Việt.

1.     Trường hợp thứ nhất.


Chữ chánh () mang nghĩa là đúng sự thật, chính xác, phù hợp, chân chánh, chân thật.

Ví dụ:

Chánh kiến (正見- sammādiṭṭhi): thấy đúng sự thật.

Chánh mạng (正命- sammājīva): nuôi mạng chân chánh.

Chánh luật nghi (正律儀-sammāsaṃvara): sự phòng hộ chân chánh.

Trong trường hợp thứ nhất này, nghĩa của chữ chánh () rất mực rõ ràng nên hầu như không có gì phải bàn cãi.

2.     Trường hợp thứ hai.


Chữ chánh () nằm trong những cú ngữ chánh giác giả (者) chánh tận giác giả (者); đẳng chánh giác giả (等者) tối chánh giác giả (最正覺者); vô thượng chánh giác giả (無上者);

Những trường hợp này phần lớn xuất hiện trong Bốn bộ A-hàm

Theo đối chiếu, những cách chuyển dịch sai khác nêu trên có tương đương Pāli là sammāsambuddhassa. Ở đây, sammā là trạng từ, có nhiều nghĩa, nghĩa được sử dụng ở đây là nghĩa hoàn toàn[1]; sam tiếp đầu ngữ, mang nghĩa là tự bản thân; buddhassa là danh từ, nam tính, số ít, chỉ cho bậc giác ngộ.

Như vậy, đối với các trường hợp sai khác nêu trên được Hán dịch từ hợp ngữ sammāsambuddhassa thì có thể được dịch thống nhất là bậc Giác Ngộ hoàn toàn/ bậc Giác Ngộ viên mãn.

3.     Trường hợp thứ ba


Chữ chánh () nằm trong cú ngữ chánh tâm giải thoát (), hoặc tâm chánh giải thoát ().

Trường hợp này chỉ xuất hiện trong Trung A-hàmTạp A-hàm.

Theo đối khảo, cú ngữ chánh tâm giải thoát () có tương đương Pāli là sammā vimuttacitta.

Trung A-hàm, kinh số 12 có nguyên tác như sau:

惒破!比丘如是,得此六善住處

 Theo kinh Tăng Chi Bộ (A.4.195-ii.196), với nguyên tác Pāli:

Evaṃ sammā vimuttacittassa kho, vappa, bhikkhuno cha satatavihārā adhigatā honti.

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch là:

 Như vậy, này Vappa, với vị Tỷ-kheo có tâm được chơn chánh giải thoát, sáu an trú thường hằng được chứng đắc.

Cùng bản kinh này, Tỳ-kheo Bodhi dịch cú ngữ sammā vimuttacitta perfectly liberated in mind (trong tâm được giải thoát hoàn toàn).

Cũng liên hệ đến trường hợp này, Trung A-hàm, kinh số 74 ghi:

是時,尊者阿那律陀得阿羅呵,,得長老上尊,則於爾時而說頌曰:

 Tương tự, Tạp A-hàm, kinh số 28 đã giải thích:

佛告比丘: 於色生厭、離欲、滅盡, 不起諸漏,,是名比丘見法涅槃;如是受、想、行、識, 於識生厭、離欲、滅盡,不起諸漏,,是名比丘見法涅槃.

Theo hai bản kinh Trung A-hàmTạp A-hàm vừa dẫn, từ những cơ sở như chứng đắc quả A-la-hán, sự nhàm chán, lìa dục, diệt tận, không khởi các lậu đối với sắc và thành tựu Niết-bàn ngay trong hiện tại thì cú ngữ tâm chánh giải thoát () ở trường hợp này nếu được chuyển dịch là tâm được giải thoát hoàn toàn có lẽ sẽ phù hợp hơn so với nghĩa tâm chân chánh được giải thoát.

Như vậy, ở cú ngữ chánh tâm giải thoát (), hoặc tâm chánh giải thoát () thì chúng tôi kính đề nghị chuyển dịch là:

 Tâm được giải thoát hoàn toàn.

4.     Trường hợp thứ tư.


Chữ chánh () nằm trong cú ngữ chánh tận khổ ()

Trường hợp này xuất hiện nhiều nhất ở Trung A-hàmTạp A-hàm.

Theo đối chiếu, chánh tận khổ () có tương đương Pāli là sammā dukkhakkhaya. Điều đặc thù là cú ngữ này được sử dụng như một định ngữ, xuyên suốt và giống hệt nhau trong cả bốn bộ Nikāya.

Trong quá trình phiên dịch Pāli-Việt cú ngữ sammā dukkhakkhaya cũng được Hòa thượng Thích Minh Châu dịch thống nhất, với khác biệt một vài chữ. Cụ thể như:

2.1 Kinh Trường Bộ (D.33): chơn chánh, đoạn diệt khổ đau (HT. Thích Minh Châu dịch).

Cũng bản kinh này, tác giả Maurice O'Connell Walshe dịch là the utter destruction of suffering (đoạn trừ hoàn toàn khổ đau). Và tỳ-kheo Sujato dịch là the complete ending of suffering (chấm dứt hoàn toàn khổ đau).

4.2  Kinh Trung Bộ (M. 53): chơn chánh đoạn tận khổ đau (HT. Thích Minh Châu dịch).

Cũng bản kinh này, tác giả I.B Horner dịch là the complete destruction of anguish (đoạn trừ hoàn toàn khổ đau). Và tỳ-kheo Sujato dịch là the complete ending of suffering (chấm dứt hoàn toàn khổ đau). Cũng trong trường hợp này, tỳ-kheo Bodhi dịch là the complete destruction of suffering (đoạn trừ hoàn toàn khổ đau).

4.3  Kinh Tương Ưng Bộ (S.48.9-v.196): chơn chánh đoạn tận khổ đau (HT. Thích Minh Châu dịch). Và tỳ-kheo Sujato dịch là the complete ending of suffering (chấm dứt hoàn toàn khổ đau).

4.4  Kinh Tăng Chi Bộ (A.5.2-iii.2): đoạn tận khổ đau (HT. Thích Minh Châu dịch). Và tỳ-kheo Bodhi dịch là the complete destruction of suffering (đoạn trừ hoàn toàn khổ đau).

Có thể nói, trong Bốn bộ Nikāya vừa nêu thì chữ sammā được Hòa thượng Thích Minh Châu dịch là chân chánh. Cũng chữ đó nhưng được các nhà phiên dịch Pāli-Anh dịch là hoàn toàn (complete).

Từ sự đối khảo cú ngữ  chánh tận khổ () với tương đương Pāli sammā dukkhakkhaya qua những dịch ngữ vừa nêu đã cho thấy, với phương diện Pāli-Anh thì cách dịch chấm dứt hoàn toàn khổ đau là dịch ngữ được phần đông những dịch giả có thẩm quyền sử dụng.

Bên cạnh những liên hệ về ngữ nghĩa Pāli-Việt, Pāli-Anh thì ở Hán tạng, trong luận Du-già-sư-địa cũng góp phần bổ sung thêm tư liệu về trường họp này. Theo sự giải thích của luận Du-già-sư-địa, quyển 95:

 Chánh tận khổ nghĩa là, khi vừa thấy rõ chân lý thì bắt đầu[2] đoạn trừ mọi đau khổ rồi thoát khỏi khổ đau, với bậc A-la-hán thì đã đoạn trừ mọi khổ đau.

  (苦者. 謂初見諦所斷眾苦作苦邊者. 謂阿羅漢所斷眾苦).

Luận Du-già đã giải thích rõ ràng như vậy, thế nhưng ở trong kinh thì điều này được thể hiện rất mực cô động. Tạp A-hàm, kinh số 109 đã chứng tỏ điều đó:

Này các tỳ-kheo! Bậc kiến đế thì mọi đau khổ sẽ được đoạn trừ

(諸比丘!見諦者所).

Tạp A-hàm, kinh số 394, 748 có nội dung liên hệ với kinh 109 vừa nêu.

Kinh Tương Ưng Bộ (13.2-ii.134) cũng khẳng định điều tương tự:

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với bậc Thánh đệ tử đã chứng được kiến cụ túc, đối với người đã chứng được minh kiến, cái này là nhiều hơn, tức là khổ đã được đoạn tận, đã được diệt tận; ít hơn là khổ còn lại. Không phải một trăm lần, không phải một ngàn lần, không phải một trăm ngàn lần, có thể sánh bằng khi so sánh với khổ uẩn trước đã được đoạn tận, đã được diệt tận, tức là bảy lần nhiều hơn.

Như vậy lợi ích lớn thay, này các Tỷ-kheo, là pháp minh kiến; như vậy lợi ích lớn thay là chứng đắc pháp nhãn! (HT. Thích Minh Châu, dịch).

(Evameva kho, bhikkhave, ariyasāvakassa diṭṭhisampannassa puggalassa abhisametāvino etadeva bahutaraṃ dukkhaṃ yadidaṃ parikkhīṇaṃ pariyādiṇṇaṃ; appamattakaṃ avasiṭṭhaṃ. Neva satimaṃ kalaṃ upeti na sahassimaṃ kalaṃ upeti na satasahassimaṃ kalaṃ upeti purimaṃ dukkhakkhandhaṃ parikkhīṇaṃ pariyādiṇṇaṃ upanidhāya, yadidaṃ sattakkhattuṃparamatā. Evaṃ mahatthiyo kho, bhikkhave, dhammābhisamayo; evaṃ mahatthiyo dhammacakkhupaṭilābho’’ti.

Như vậy, có thể nói rằng, chánh tận khổ () là cách dịch sát văn Pāli sammā dukkhakkhaya. Ở đây, chánh (- sammā): hoàn toàn; tận (-khaya): đoạn trừ, dứt trừ và khổ (-dukkha): khổ đau. Và do vậy, cú ngữ chánh tận khổ () thì nên chăng được chuyển dịch là: đoạn tận mọi khổ đau.

Điều cần lưu ý, cú ngữ chánh tận khổ () trong ngữ cảnh là bậc A-la-hán thì mang nghĩa là đoạn tận mọi khổ đau. Trong trường hợp là bậc Kiến đế, tức ở quả vị Dự lưu thì chánh tận khổ () tuy cũng được dịch là đoạn tận mọi khổ đau nhưng không được hiểu ở thì hiện tại.  Vì lẽ, bậc Dự lưu thì chỉ mới đoạn trừ ba kiết sửthân kiến, nghi, giới cấm thủgiảm thiểu ba căn bản phiền não tham, sân, si. Vì phiền não vẫn còn nên khổ đau vẫn chưa dứt. Do vậy, cú ngữ chánh tận khổ () trong trường hợp Kiến đế, nói theo kinh Tăng Chi Bộ (A.5.2); (A.7.63); (A.9.3)… luôn gắn liền với thuộc tính dẫn đến (gāminiyā) việc đoạn tận mọi khổ đau (sammā  dukkhakkhayagāminiyā).

Trong quá trình xử lý văn bản Bốn bộ A-hàm và các bộ Nikāya liên quan, chúng tôi đã phát hiện những điều như đã trình bày. Lẽ tất nhiên, với khảo sát ban đầu thì rất khó có thể đạt đến nghĩa chân thực. Vì vậy, kính mong các bậc thức giả cùng quan tâm góp ý để những vấn đề vừa nêu thuận hợp với lời Phật dạy.

 

 



[1] Lưu ý rằng, trong quá trình truyền dịch, do vì lỗi biến âm hoặc ghi nhận chưa đầy đù, nên chữ sammā trong Nam phạn Pāli đôi khi được chép thành sama. Ở nghĩa này thì sama giữ vai trò là tính từ, mang nghĩa là giống nhau, bằng nhau được Hán dịch là đẳng (等). Trường hợp này có thể thấy ở kinh Tăng Nhất A-hàm (10.2): , 等方便, 等語,等行,等命, 等治,等念,等定.Điều kỳ thú là trong Bắc phạn Sanskrit thì chữ sama cũng mang nghĩa tương tự. Xem, Lankavatarasutra (kinh Lăng-già) chương thứ hai, kệ 113: udeti bhāskaro yadvatsamahīnottame jine./ tathā tvaṃ lokapradyota tattvaṃ deśesi bāliśān ./113/ (Như ánh mặt trời chiếu chúng sinh./ Chẳng phân ưu tú hay hạ liệt./ Người là ngọn đèn soi thế gian./ Hãy vì kẻ ngu thuyết Chân Thực! (Huỳnh Ngọc Chiến, dịch).

[2] Nguyên tác tác (作): bắt đầu (始也).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5207)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2674)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6153)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3068)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3116)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3325)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3250)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3309)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4572)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2740)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5232)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3886)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3852)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3216)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4156)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5069)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3532)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6765)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3978)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3231)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3110)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2973)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5881)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4646)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3508)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2906)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3320)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4437)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5738)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6650)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3737)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4544)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4621)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3985)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3414)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4647)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6074)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5853)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3648)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4697)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4467)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4545)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4279)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4610)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8232)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3934)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5733)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5220)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6867)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6191)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 6006)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5818)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6313)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6803)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4985)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5582)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6404)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3798)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5438)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10480)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant