Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cảivật chất nên đời sốngphụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồtại gia.
Dĩ nhiên, sự phát tâm cao thượng, cho đi một phần tài sản của mình với lòng tintrong sạch sẽ mang đến cho các tín chủ tại gia quả phước vô lượng.
Về phía người xuất gia nuôi mạng bằng sự nhận thí, ngoài việc phải xứng đáng (tức có giới hạnh, có tu hành) thì còn mang trách nhiệm nặng nề. Nếu không làm tròn bổn phận của mình, không giáo hóa dẫn dắt tín đồ hướng thiện mà thọ nhận nhiều thì sẽ mang nợ của tín thí. Do vậy, Đức Phật thường răn nhắc hai chúng xuất gia và tại gia phải thực thi bổn phận và trách nhiệm của mình, “làm được như thế thì phương ấy được an ổn không điều gì lo sợ”.
“Một thời Phật ở tại núi Kỳ-xà-quật, thành La-duyệt-kỳ cùng với chúng Đại Tỳ-kheo 1.250 người. Bấy giờ, vào lúc thích hợp, Đức Thế Tôn khoác y cầm bát vào thành khất thực. Lúc bấy giờ tại thành La-duyệt-kỳ có con trai của trưởng giả tên là Thiện Sinh, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành, đi đến khu vườn công cộng sau khi vừa tắm gội xong, cả mình còn ướt, hướng đến các phương Đông, Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới mà lạy khắp cả.
…
Phật lại bảo Thiện Sinh:
- Kẻ đàn việtcung phụng hàng Sa-môn, Bà-la-môn với 5 điều: 1- Thân hành từ. 2- Khẩu hành từ. 3- Ý hành từ. 4- Đúng thời cúng thí. 5- Không đóng cửa khước từ.
- Sa-môn, Bà-la-môn cũng khuyên dạy theo 6 điều: 1- Ngăn ngừa chớ để làm ác. 2- Chỉ dạy điều lành. 3- Khuyên dạy với thiện tâm. 4- Cho nghe những điều chưa nghe. 5- Những gì đã được nghe làm cho hiểu rõ. 6- Chỉ vẽ con đườngsanh Thiên.
Này Thiện Sinh, nếu đàn-việt kính phụng hàng Sa-môn, Bà-la-môn như thế thì phương ấy được an ổn không điều gì lo sợ”.
(Kinh Trường A-hàm, kinh Thiện Sinh, số 16 [trích])
Với người tại giathí chủ, phát tâmhộ trì Tam bảo, cung cấp bốn vật dụng thiết yếu mỗi ngày cho chư Tăng mà không hề lẫn tiếc, không biết mệt mỏi. Niệm niệm luôn thương kính người xuất gia, trong các hành động, trong mỗi lời nói, trong từng suy nghĩ đều bao hàm yêu thương, tôn kính, hộ trì. Đức Phật luôn nhắc nhở hàng đệ tửtại giabố thí với tuệ, biết rõ quả phước của việc mình làm. Người xuất gia cần thực phẩm, y phục, thuốc men, phòng xá liền kịp thời đáp ứng, không khước từ. Làm được như vậy mới là đệ tửtại giachân chínhhộ trì.
Người xuất giathọ dụng của tín thí với trách nhiệm rất nặng nề. Đó là thường chỉ dạy những điều lành cho thí chủ, ngăn ngừa không cho họ làm ác. Làm sao để nói cho người khác nghe nếu bản thân mình không hơn họ về đạo đức, từ bi và trí tuệ? Muốn được vậy người tu phải khuyên dạy với thiện tâm, phải cố gắngtu hành giới-định-tuệ thanh tịnh và trang nghiêm, là mô phạm ở đời. Những gì hàng đệ tử chưa nghe cần nói cho họ nghe rõ ràng, nếu đã nghe rồi thì cần phải hiểu cho chính xác. Nghe hiểu tỏ tườnggiáo pháp của Đức Phật rồi đức tintrong sạch vào Tam bảo sẽ phát sinh. Từ đây họ có thể chuyển hóaba nghiệpthân khẩu ý, siêng năng tích phước hành thiện, tạo nền tảng cho phước báo của trời người.
Vì vậy, hai chúng xuất gia và tại gia như hai cánh của con chim, muốn bay cao và bay xa thì cần nâng đỡ lẫn nhau, giữ thăng bằng cho nhau. Hàng tại gia giữ vai tròhộ pháp, hàng xuất gia có nhiệm vụhoằng pháp, cả hai cần liên kết và hỗ trợ nhau tu hành nhằm duy trìChánh phápthường trụ ở đời để lợi ích chúng sinh.
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọngý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chíhướng thượng.
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biếnliên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thườngsinh diệt đó...
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
Chính vì phương tiệnđối trịcăn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độcphiền não sinh ra.
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
Nói theo thuật ngữPhật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vậtvô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
Các nhà nghiên cứuPhật học, các Sử gia đều coi Kinh tạngNguyên thủy là tài liệuđáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phậttuyên thuyết.
Theo đúng giáo lýbất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cáchthiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài ngườimà cả với loài vật.
Ở trong chánh điệnthờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thân là Pháp thân, Báo thân và Ứng thân. Cách bài trí các tượng Phật ở chánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnhcứu khổtiêu biểutuyệt vờinhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tátQuan Thế Âm...
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnhquan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Pháp là giảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
Nếu chúng tanhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
Chánh tín trong Phật Giáo là niềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
Chánh tín trong Phật Giáo là niềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
Mặc dầuhư vọng phân biệt là một khái niệm liên quanmật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiêntự tạitrong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
Đây là bốn phạm trùtâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giảtu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
Bát bấtgồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớsiêu phàm (đa văn đệ nhất).
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
Kinh Phạm VõngTrường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
Bồ TátQuan Thế Âm là hiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyệnthực hiệntừ bicùng tậntrong đờivị lai, nếu chúng sinh còn đau khổ. Vì chỉ có từ bi mới giải trừđau khổ...
Tự tính các pháp chính là Tự Thể của các pháp. Vì các duyên hòa hợp sinh ra các pháp nên nếu các duyên tan rã thì các pháp mất do đó các pháp không có tự tínhcá biệt.
Ðọc Bát Nhã Tâm Kinh, tôi thấy như có một luồng gió mới, nó phá bỏ tất cả quan niệm, chối bỏ luôn cả cái hiện hữu. Tôi viết bài nầy theo sự hiểu biếtđơn giản của tôi...
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.