Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bổn Phận Của Người Xuất Gia & Tại Gia

29 Tháng Chín 202004:19(Xem: 6205)
Bổn Phận Của Người Xuất Gia & Tại Gia
Bổn Phận Của Người Xuất Gia & Tại Gia 

Quảng Tánh

Bổn Phận Của Người Xuất Gia & Tại Gia

Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.

Dĩ nhiên, sự phát tâm cao thượng, cho đi một phần tài sản của mình với lòng tin trong sạch sẽ mang đến cho các tín chủ tại gia quả phước vô lượng.

Về phía người xuất gia nuôi mạng bằng sự nhận thí, ngoài việc phải xứng đáng (tức có giới hạnh, có tu hành) thì còn mang trách nhiệm nặng nề. Nếu không làm tròn bổn phận của mình, không giáo hóa dẫn dắt tín đồ hướng thiện mà thọ nhận nhiều thì sẽ mang nợ của tín thí. Do vậy, Đức Phật thường răn nhắc hai chúng xuất giatại gia phải thực thi bổn phận và trách nhiệm của mình, “làm được như thế thì phương ấy được an ổn không điều gì lo sợ”.

“Một thời Phật ở tại núi Kỳ-xà-quật, thành La-duyệt-kỳ cùng với chúng Đại Tỳ-kheo 1.250 người. Bấy giờ, vào lúc thích hợp, Đức Thế Tôn khoác y cầm bát vào thành khất thực. Lúc bấy giờ tại thành La-duyệt-kỳ có con trai của trưởng giả tên là Thiện Sinh, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành, đi đến khu vườn công cộng sau khi vừa tắm gội xong, cả mình còn ướt, hướng đến các phương Đông, Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới mà lạy khắp cả.
Phật lại bảo Thiện Sinh:

- Kẻ đàn việt cung phụng hàng Sa-môn, Bà-la-môn với 5 điều:
1- Thân hành từ.
2- Khẩu hành từ.
3- Ý hành từ.
4- Đúng thời cúng thí.
5- Không đóng cửa khước từ.

- Sa-môn, Bà-la-môn cũng khuyên dạy theo 6 điều:
1- Ngăn ngừa chớ để làm ác.
2- Chỉ dạy điều lành.
3- Khuyên dạy với thiện tâm.
4- Cho nghe những điều chưa nghe.
5- Những gì đã được nghe làm cho hiểu rõ.
6- Chỉ vẽ con đường sanh Thiên.

Này Thiện Sinh, nếu đàn-việt kính phụng hàng Sa-môn, Bà-la-môn như thế thì phương ấy được an ổn không điều gì lo sợ”.

(Kinh Trường A-hàm, kinh Thiện Sinh, số 16 [trích])

Với người tại gia thí chủ, phát tâm hộ trì Tam bảo, cung cấp bốn vật dụng thiết yếu mỗi ngày cho chư Tăng mà không hề lẫn tiếc, không biết mệt mỏi. Niệm niệm luôn thương kính người xuất gia, trong các hành động, trong mỗi lời nói, trong từng suy nghĩ đều bao hàm yêu thương, tôn kính, hộ trì. Đức Phật luôn nhắc nhở hàng đệ tử tại gia bố thí với tuệ, biết rõ quả phước của việc mình làm. Người xuất gia cần thực phẩm, y phục, thuốc men, phòng xá liền kịp thời đáp ứng, không khước từ. Làm được như vậy mới là đệ tử tại gia chân chính hộ trì.

Người xuất gia thọ dụng của tín thí với trách nhiệm rất nặng nề. Đó là thường chỉ dạy những điều lành cho thí chủ, ngăn ngừa không cho họ làm ác. Làm sao để nói cho người khác nghe nếu bản thân mình không hơn họ về đạo đức, từ bi và trí tuệ? Muốn được vậy người tu phải khuyên dạy với thiện tâm, phải cố gắng tu hành giới-định-tuệ thanh tịnhtrang nghiêm, là mô phạm ở đời. Những gì hàng đệ tử chưa nghe cần nói cho họ nghe rõ ràng, nếu đã nghe rồi thì cần phải hiểu cho chính xác. Nghe hiểu tỏ tường giáo pháp của Đức Phật rồi đức tin trong sạch vào Tam bảo sẽ phát sinh. Từ đây họ có thể chuyển hóa ba nghiệp thân khẩu ý, siêng năng tích phước hành thiện, tạo nền tảng cho phước báo của trời người.

Vì vậy, hai chúng xuất giatại gia như hai cánh của con chim, muốn bay cao và bay xa thì cần nâng đỡ lẫn nhau, giữ thăng bằng cho nhau. Hàng tại gia giữ vai trò hộ pháp, hàng xuất gianhiệm vụ hoằng pháp, cả hai cần liên kết và hỗ trợ nhau tu hành nhằm duy trì Chánh pháp thường trụ ở đời để lợi ích chúng sinh.





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 105)
Để phân tích sâu hơn câu chuyện "Bốn cô vợ" qua lăng kính Phật giáo, tôi sẽ mở rộng các khía cạnh triết lý,
(Xem: 213)
Là một thuật ngữ âm Hán – Việt, có lẽ khó hiểu với một số Phật tử cũng như những người trẻ.
(Xem: 425)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳ là thời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 442)
Trong suốt khoảng thời gian mười lăm thế kỷ khi Phật giáo có mặt ở Ấn Độ, đã xuất hiện những quan điểm khác nhau về...
(Xem: 393)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phật là phật tính. Và cũng do phật tính mà Đức Phật đã ban cho những lời giảng.
(Xem: 418)
Đức Phật (khoảng năm 450 trước Công nguyên) là người có giáo lý tạo thành nền tảng của truyền thống Phật giáo.
(Xem: 508)
Chỗ ở của người tu thường là nơi thanh vắng, núi rừng. Thời Đức Phật còn tại thế cũng thường ở trong những khu rừng.
(Xem: 452)
Trên con đường tiến hóa của mình, loài người tiến theo hướng càng ngày càng thiện lành hơn.
(Xem: 568)
Đầu đà tăng còn gọi là khổ hạnh tăng. Hán dịch chữ Tăng, không chỉ riêng tăng nhân Phật giáo mà nhằm chỉ vị tăng của các tôn giáo Ấn Độ cổ đại.
(Xem: 730)
Truyền Đăng sinh năm 1554, họ Diệp, hiệu Vô Tận, biệt hiệu Hữu Môn.
(Xem: 736)
Tính nối kết là một đặc trưng của kinh Pháp Hoa. Ở đây chỉ trích ra một ít câu để làm rõ.
(Xem: 728)
Vạn sự vạn vật hay các pháp hữu vi đều từ duyên mà khởi lên, chứ không có tự tánh.
(Xem: 1036)
Lama Zopa Rinpoche giải thích phương pháp thiền về tính không trong cuộc sống hàng ngày.
(Xem: 1294)
Vạn sự vạn vật hay các pháp hữu vi đều từ duyên mà khởi lên, chứ không có tự tánh.
(Xem: 999)
Trong bài này sẽ nghiên cứu về chương thứ nhất, phẩm Tựa, của kinh Pháp Hoa để nhìn thấy phần nào tính vũ trụ của kinh
(Xem: 1241)
Khi một thiền giả theo đuổi con đường giới, vị ấy nên khởi sự thực hành khổ hạnhđể kiện toàn các đức đặc biệt ít muốn, biết đủ
(Xem: 1344)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ...
(Xem: 1377)
Hai thời công phu còn gọi là triêu mộ khóa tụng (朝暮课诵) hoặc nhị khóa, tảo vãn khóa, đều áp dụng cho hàng xuất giatại gia mỗi ngày.
(Xem: 1596)
Người trí tạo thiên đường cho chính mình, kẻ ngu tạo địa ngục cho chính mình ngay đây và sau này.
(Xem: 1428)
Chúng ta kinh nghiệm thế giới vật chất bằng sáu giác quan của mình: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
(Xem: 1170)
Ta đã già rồi ư? Sự vô thường của thời gian quả thật không gì chống lại được.
(Xem: 1396)
Kinh Hoa Nghiêm còn gọi kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, là một kinh điển trọng yếu của Đại thừa. Bản kinh mô tả cảnh giới trang nghiêm huyền diệu
(Xem: 1337)
Từ bây giờ, là người mới xuất gia, nhiệm vụ của các con là sửa đổi và phát triển bản thân.
(Xem: 1544)
Việt Namquốc gia ở vùng Đông Nam Á cho nên chúng ta may mắn được hấp thụhai trường phái Phật giáo lớn nhất của thế giới,
(Xem: 1414)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 1733)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 1385)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ
(Xem: 1486)
Chủng tử là hạt mầm của đời sống, là nguồn năng lượng đơn vị cấu thành nghiệp lực, là yếu tốsâu kín và căn bản quyết định sự hình thành cái ‘Ta’ (Ngã)
(Xem: 1652)
Đế Nhàn, gọi đầy đủ là Cổ Hư Đế Nhàn, là tổ sư đời thứ 43 Thiên Thai tông, một bậc cao Tăng cận đại, phạm hạnhcao khiết, giỏi giảng kinh thuyết pháp, độ chúng rất đông.
(Xem: 1306)
Giải thoát thì không có trước có sau, không có thừa! Và không có để lại bất kỳ cái gì.
(Xem: 1469)
Bản kinh chúng ta đang có là bản kinh 262 trong Tạp A Hàm Hán Tạng. Trong Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya) của tạng Pāli có một kinh tương đương, đó là kinh Chiên Đà.
(Xem: 1446)
Thực tại được kinh Hoa Nghiêm gọi là pháp thân Phật, được diễn tả nhiều trong các bài kệ của phẩm đầu tiên Thế Chủ Diệu Nghiêm.
(Xem: 1576)
Gần 26 thế kỷ về trước, sau khi kinh qua nhiều pháp môn tu tập nhưng không thành công, Đức Phật đã quyết định thử nghiệm chân lý bằng cách tự thanh tịnh lấy tâm mình.
(Xem: 1149)
Tín là niềm tin. Niềm tin vào Tam Bảotin tưởng vào Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 1630)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian đem lại an vui cho tất cả chúng sanh. Đạo Phật là đạo của giác ngộgiải thoát.
(Xem: 1142)
Pháp Lục hòa là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nền tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn
(Xem: 1186)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha
(Xem: 1067)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người
(Xem: 1682)
Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô.
(Xem: 1416)
Phật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh.
(Xem: 1665)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến. Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này.
(Xem: 1815)
Phẩm này tiếng Phạn Sadāparibhūta. Sadā là thường, mọi lúc, mọi thời gian; Paribhūta là không khinh thường.
(Xem: 1972)
Ngày xưa, ở thành Xá-vệ có một vị trưởng giả giàu có, tiền tài châu báu vô lượng. Ông thường thứ tự thỉnh các vị sa-môn đến nhà cúng dường.
(Xem: 2210)
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
(Xem: 1935)
Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ(zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia.
(Xem: 1832)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(Xem: 1403)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(Xem: 1418)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(Xem: 1276)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
(Xem: 1280)
Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngụcthiên đàng. Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngụcđịa ngục.
(Xem: 2323)
Duyên Khởi hay còn gọi là Định luật Nhân Quả là một nội dung quan trọng bậc nhất trong giáo phápĐức Phật thuyết giảng.
(Xem: 1924)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 1877)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng takhông thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 1796)
Trong giáo lý của Đức Phật về duyên khởi(Paticca-samuppāda), vòng luân hồi của sinh tử, gọi là samsara, được mô tả như một quá trình
(Xem: 1727)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(Xem: 1687)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(Xem: 2167)
Từ vô ngã bùng nổ thành ngã, và rồi từ ngã bùng nổ giác ngộ trở về lại vô ngã. Cái “big bang Phật Giáo” này xảy ra trong từng sátna.
(Xem: 2476)
Trong nhận thức của quốc vương Koravya, cũng như nhận thức của nhiều người, một người từ bỏ cuộc sống...
(Xem: 2241)
Trong bài này sẽ nói về năm pháp: danh, tướng, phân biệt, chánh trí, như như, từ Kinh Nhập Lăng Già (Đại chánh tân tu Đại tạng kinh,
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant