Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Dẫn Vào Kinh Pháp Hoa

24 Tháng Mười 202015:28(Xem: 3833)
Dẫn Vào Kinh Pháp Hoa
Dẫn Vào Kinh Pháp Hoa

Khải Thiên 

hoa sen 1

Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh. Hy vọng điều này sẽ ít nhiều giúp cho người đọc tiếp thu giáo nghĩa một cách chính xác. Dĩ nhiên, mỗi người, mỗi hành giả có một trình độ tâm chứng nhất định khác nhau. Mỗi hành giả, do đó, hiểu kinh theo cấp độ tuệ giáccảm xúc tâm linh của riêng mình. Thật vậy, chúng ta đến với kinh bằng những cách tiếp cận khác nhau, những hiểu biết khác nhau, cùng với những diễn dịch khác nhau .v.v. Nhưng vượt lên trên tất cả, chúng ta cũng nên lưu ý rằng, chân lý chỉ có một mà thôi. Chân lý, do vậy, không thể đúng với người này mà khác với người kia, hay đúng chỗ này mà sai ở chỗ kia. Người thọ trì Pháp Hoa nghiêm túc phải dùng nhiều phương tiện để đạt đến một chân lý, nht tha. Những gợi ý dưới đây dành cho những bạn đồng hành cùng thọ học kinh Pháp Hoa.

Cu trúc ba bthuc Kinh Pháp Hoa (Pháp Hoa Tam BKinh): Bộ kinh Pháp Hoa hiện tại chúng ta đang thọ trì là bản dịch trực tiếp từ chữ Phạn (sanskrit) sang chữ Hán của Ngài Cưu-ma-la­thập; đối với người đọc tiếng Việt, tiếp theo nguyên bản này có bản dịch từ chữ Hán sang chữ Việt của Hoà Thượng Thích Trí Tịnh. Đây là bản kinh chính có hai mươi tám chương. Tuy nhiên, trong bộ kinh này có hai chi tiết cần lưu ý. Trong chương một (Phẩm Tựa) phần mở đầu, kinh có nói rằng Đức Phật trước hết giảng kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa, sau đó Ngài nhập vào Chánh định Vô Lượng NghĩaXứ. Và sau khi an lành dậy khỏi định, Ngài bắt đầu giảng kinh Pháp Hoa. Thứ đến, trong chương thứ hai mươi tám (Phẩm Phồ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát) kinh khuyến khích hành giả Pháp Hoa tu tập gia hạnh nương theo Bồ tát Phổ Hiền. Ởđó xác định bốn điều kiện để có được kinh Pháp Hoa (Được chư Phật hộ niệm, trồng các cội công đức, vào trong chánh định, và phát tâm cứu độ chúng sinh). Vì vậy, kinh Quán PhHin BTát Hành Pháp, một tập kinh ngắn, được gắn kết vào cu trúc Pháp Hoa tam bkinh. Tập kinh này được xem là những chỉ dẫn quan trọng về cách sám hối tội chướng của hành giả, làm cho thân tâm trở nên thanh tịnh. Từđây có cấu trúc ba bộ kinh thuộc Pháp Hoa (Pháp Hoa Tam Bộ Kinh), bao gồm ba phần: Phn khai kinh (Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa, có ba chương), phn chính (Kinh Pháp Hoa, có hai mươi tám chương), và phn Pháp hành (Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp, có một chương). Chúng ta sẽ lần lượt đi vào nội dung cụ thể của ba bộ kinh Pháp Hoa ở phần sau.

Các Phân Hi ca Kinh Pháp Hoa: Các bài thuyết pháp của Đức Phật trong Kinh Pháp Hoa hai mươi tám chương được trình bày qua hình thức kể chuyện, những vở kịch dài, có nối kết ba đời quá khứ, hiện tại, và vị lai. Nội dung thường mang tính chất huyền bí vì bối cảnh câu chuyện đôi khi diễn ra ở các cõi trời hay liên hệ đến Long cung sâu thẳm ở tận đáy đại dương. Tuy nhiên, hầu hết các câu chuyện được diễn ra trên hai bối cảnh chính đó là trên đỉnh núi Linh Thứu (Linh sơn hội) hoặc trên không trung (Hư không hội) của đỉnh núi Linh Thứu. Các pháp thoại này lại được chia thành ba hội khác nhau (nhị xứ tam hội) đó là trước pháp hội Linh sơn (tiền Linh sơn hội), pháp hội trên không trung (Hư không hội), và sau pháp hội Linh sơn (hậu Linh sơn hội).

Pháp hội tiền Linh sơn diễn ra tại núi Linh Thứu, bao gồm mười chương, từ chương một (Phẩm Tựa) đến chương mười (Phẩm Pháp Sư). Trong các pháp hội này, người thuyết giảng là Đức Thích Ca Mâu Ni Phật; giáo pháp được thuyết giảngTht tướng ca các Pháp. Đối tượng nghe phápchúng sinh đương đại thời Phật tại thế.

Pháp hội không trung, thuyết giảng trên hư không, bao gồm mười hai chương, từ chương mười một (Phẩm Hiện Bảo Tháp) đến chương hai mươi hai (phẩm Chúc Lụy). Trong pháp hội không trung, người thuyết Pháp là Đức Thích Ca Mâu Ni, có Đức Phật Đa Bảo và các phân thân của chư Phật cùng tham dự. Nội dung giáo pháp bao gồm nói về Đức Phật cửu viễn thật thành, các phương tiện khai cận hiển viễn, Như Lai thường tại, và thế giới bổn lai thường tịch (ta bà tức tịch quang). Đối tượng giáo hoá là chúng sinh đời sau, sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni diệt độ.

Pháp hội hậu Linh sơn giảng tại núi Linh Thứu, bao gồm bảy chương, từ chương hai mươi ba (Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự) đến hai mươi tám (Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát). Người thuyết giảng là chư Bồ Tát, giáo pháp được giảng nói về sự tán dương công đức của người thọ trì kinh và thệ nguyện hộ trì của chư Bồ tát. Đối tượng giáo hoá là chúng sinh đời sau, sau Phật diệt độ.

Biu đồ Pháp hi b1

Các Phân Đon ca Pháp Hoa: Theo tông Thiên Thai, kinh Pháp Hoa hai mươi tám chương được phân đoạn theo hình thức hai môn và sáu đoạn (nhmôn lc đon) bao gồm Tích môn và Bổn môn. Mỗi môn có ba phần: phần giới thiệu (tphn), phần chính (chính tông phn), và phần kết (lưu thông phn). Đối với Tích môn, chương một là phần giới thiệu, chương hai đến chương mười là phần chính tông, chương mười một đến chương mười bốn là phần kết. Đối với Bổn môn, chương mười lăm (Phẩm Tùng Địa Dũng Xuất) là phần giới thiệu, Phẩm mười sáu (Như Lai Thọ Lượng) là phần chính tông, chương mười bảy đến hai mươi tám là phần kết.

 

Biu đồ Phân đon

b2

Hai Môn ca Pháp Hoa: Môn ở đây không phải là sự phân biệt riêng lẻ từng nơi chốn hay từng góc độ độc lập. Danh từ Tích môn Bn môn chỉ đến hai cách nhìn về sự hiện hữu của Đức Phật. Tích môn chỉ cho các hoạt động thực tế của Đức Phật như quá trình Ngài tu học, thuyết pháp, và giáo hoá chúng sinh. Tích môn có thể được nhận thức qua các sự kiện đản sinh, thành đạo, chuyển Pháp luân, và nhập niết bàn. Các hành trạng đó có dấu tích, có thể thấy biết được trong nhận thức chung của con người theo dòng lịch sử của Đức Phật. Tích môn như thế là sự thị hiện mang tính chất lịch sử hiện thực của một vị Phật, có đản sinh và có diệt độ. Ngược lại, Bổn môn chỉ đến những cái không thể thấy dấu tích, không biểu hiện ra ngoài, không giới hạn trong không gianthời gian thị hiện của Đức Phật. Trong quan niệm chung của Phật giáo, bao gồm các hệ thống giáo lý của Nam tạng và Bắc tạng, đều ghi nhận quá trình lâu xa hành đạo Bồ Tát để cảm thành thọ mạng hôm nay của Đức Phật. Quá trình lâu dài kết nối nhân hạnh quả đức đó không để lại dấu vết nào trong khuôn khổ tri thức của con người đối với một Đức Phật lịch sử. Lịch sử không thể ghi lại được thời điểm khi Đức Phật lần đầu phát thiện tâmđịa ngục A-tỳ (A-tỳ ngục tốt sơ phát thiện tâm); cũng không thể ghi chép được ba A-tăng­kỳ, trăm kiếp tu hành viên mãn của Ngài (Tam kỳ quả mãn, báck kiếp nhân viên). Vì thế, khác với Tích môn, Bổn môn chỉ đến đời sống công đức viên thành của Đức Phật từ quá khứ lâu xa cho đến bây giờ và mãi tận ngàn sau. Đấy chính là ngun tugiác vô thượng và thmng vô cùngĐức Pht đã thành tu tvô lượng kiếp. Nguồn ánh sáng bất diệt ấy cũng chính là cội nguồn của sức mạnh tâm linh, là bản thể thường tại của đức Phật. Nguồn mạch tâm linh tối tôn vô thượng đó được được mô tả qua khái niệm cu vin tht thành; với ý nghĩa rằng Đức Thích Ca Mâu Ni đã thành Phật từ lâu xa, từ vô lượng vô số kiếp, và rằng Ngài là Đức Phật chân thật bật diệt, thường trụ vĩnh hằng. Khái niệm Bổn môn, do đó, mở ra một cái nhìn khác, vượt ngoài chiều kích của không gianthời gian về sự hiện hữu của Đức Phật chân thật. Qua lăng kính Bổn môn, đời sống vĩnh hằng của Đức Phật vượt lên trên khung thời gian hữu hạn từ sinh đến diệt và không gian giới hạn ở các trú xứ thị hiện lâm thời của Phật, từ vườn Lâm-tỳ-ni đến rừng Ta-la song thọ, Kusinaga. Có thể ví dụ, Đức Phật chân thật, cửu viễn (Bổn phật) như mặt trăng thường tại trên trời, trong khi Đức Phật thị hiện (Tích Phật) như ánh trăng dưới nước, khi xuất hiện (đản sinh) khi biến mất (niết bàn). Thể nhập vào thế giới thực tại của Bổn môn, do đó, là mục tiêu cuối cùng của hành giả Pháp Hoa. Ởđây, vì có trăng trên trời nên mới có ánh trăng xuất hiện dưới nước. Nhờ thấy được trăng dưới nước nên mới biết có trăng trên trời. Cũng vậy, Bổn và Tích xuất hiện như một cặp chân lý hiện hữu song hành, có bùn mới có sen. Điều quan trọng là, dù chưa thể nhận ra sự hiện diện thường trú của Đức Phật cửu viễn do trình độ tâm chứng giới hạn, chúng ta vẫn không thể dừng lại ở những gì diễn ra trong Tích môn. Đấy là lý docon đường Bổn môn được xây dựng bằng cách: khai mở phương tiện để thể nhập thế giới chân thật (khai tích hin bn), đem tất cả phương tiện của Tích môn để trở về hội nhập với Bổn môn (hi tích quy bn), và sau cùng, như qua sông rồi, con thuyền cần được để lại đằng sau (phế tích lp bn).

Hai cách tiếp cận của Tích môn và Bổn môn là một dấu ấn rất đặc trưng của Pháp Hoa. Tuy vậy, chúng ta dường như vẫn thấy được một cái gì đó rất chung nhất có mặt ở cả Tích môn và Bổn môn. Phải chăng cái chung nhất đó chính là cửa ngõ diu hu "phi nhất phi dị" để đi vào tri kiến Phật mà ởđó Bổn-Tích cũng nhất như, như nhân-quả nhất như. Trong Tích môn, phẩm Phương Tiện (chương hai) là nội dung chính, trong Bổn môn, phẩm Như Lai Thọ Lượng (chương 16) là nội dung chính. Ở hai chương chính này đều có những chỉ dẫn rất quan trọng cho hành giả về một hướng đi trực tiếp thnhp Pht tri kiến. Vấn đề này sẽ được trình bày cụ thể trong phần nội dung. Tại đây, có lẽ không cần thiết phải đề xuất thêm một khái niệm mới để dẫn vào thế giới thực tại của Pháp Hoa. Làm như thế chỉ thêm phần rối rắm. Trong khi đó con đường khai thngnhp Pht tri kiến của Pháp Hoa tự nó đã nói lên tất cả mục đích của giáo lý Pháp Hoa.

Ngôn Ngca Pháp Hoa: Ngôn ngữ của Pháp hoa là một chủ đề quan trọng trong cách thức tiếp nhận và lĩnh hội giáo nghĩa viên đốn. Các nhà nghiên cứu thường đề cập đến phong cách văn học đặc thù của Pháp Hoa, trong đó kinh được trình bày qua dòng ngôn ngữ biểu tượng. Tuy nhiên, trên thực tế, kinh cũng bao quát nhiều thể loại ngôn ngữ bao gồm thí dụ, ẩn dụ, phân tích, giải thích .v.v. Chính vì vậy, có những giáo huấn được trình bày một cách cụ thể, dễ hiểu và dễ lĩnh hội. Ví dụ, ở Phẩm Pháp Sư (chương mười), khi nói về ba điều kiện của hành giả Pháp Hoa, Đức Phật đưa ra ba hình ảnh cụ thể, nhà Như Lai, áo Như Lai, và toà Như Lai; rồi Ngài cắt nghĩa rõ nhà Như Laitâm tbi, áo Như Laihnh nhu hoà nhn nhc, và toà Như Laian trú pháp Không. Ởđây, chúng ta không cảm thấy khó khăn trong việc tiếp nhận những giáo huấn như vậy. Tuy nhiên, phần lớn nội dung trọng yếu của Pháp Hoa được trình bày thông qua những câu chuyện với nhiều hình ảnh biểu tượng, nhưng không có những giải thích cụ thể những hình ảnh biểu tượng đó. Chẳng hạn như, hình ảnh ánh sáng lông trắng giữa chặn mày, trời đất sáu điệu vang động, trời mưa hoa, nhà bếp và chén bát ở cõi trời rơi xuống, chư thiên tung thiên y lên trên trời, chiếc ytự xoay vần rồi trụ giữa hư không, hình ảnh tháp của Phật Đa Bảo xuất hiện .v.v. Có rất nhiều hình ảnh như thế xuất hiện trong kinh và được lặp đilặp lại nhiều lần. Ởđây, rõ ràng chúng ta không thể giải minh những hình ảnh như thế theo nghĩa đen hay theo cách thức của một câu chuyện thần thoại. Người đọc, vì vậy, phải đi qua các lớp nghĩa biểu tượng mới có thể nắm bắt được ý nghĩanội hàm sâu kín bên trong câu chuyện và những gì được mô tả. Đây cũng là một trong những lý do khiến nhiều người cảm thấy khó khăn trong việc tiếp nhận giáo lý thánh diệu của kinh. Không thể phủ nhận rằng, càng đi sâu vào thế giới tâm linh thì những điều được trình bày trong kinh càng trở nên xa lạ với thế giới trần tục, mang nhiều hình ảnhbiểu tượng thần bí.

Vậy tại sao Pháp Hoa không nói thẳng vào vấn đề mà phải trình bày vấn đề qua ngôn ngữ biểu tượng? Có thể nói, trước hết, Đức Phật đã tuyên bốthông điệp của kinh rằng, "Chư Pht Thế Tôn ra đời chvì mt đại snhân duyên đó là khai thchúng sinh ngnhp Pht tri kiến." Tuy nhiên bản chất của tri kiến ấy là gì thì không thể diễn đạt được. Bởi vì ngôn ngữ phàm tục của chúng ta trở nên bất lực trước các pháp vô tướng, không có khả năng diễn đạt về tht tướng vô tướng. Ởđây, tri kiến Phật là pháp vô tướng. Tất cả pháp vô lậu, các Ba-la-mật .v.v. đều là pháp vô tướng. Ngay cả thật tướng của cuộc đời cũng là pháp vô tướng. Và như thế, không thể dùng cái hữu tướng để diễn đạt cái thc ti vô tướng được. Những gì có thể diễn đạt được chỉ là bóng dáng của thực tại mà thôi. Càng miêu tả, càng xa rời thực tại. Chính vì vậy, trong ý nghĩa phương tiện, Pháp Hoa được trình bày qua dòng ngôn ngữ biểu tượng để qua đó chúng ta có thể tiếp nhận được thánh giáo về thế giới tâm linh. Trong ngôn ngữ biểu tượng, tất nhiên, khi nói đến cái biu tượng, chúng ta sẽ lập tức nghĩ đến cái được biu tượng, một cái gì đó hoàn toàn khác với bản thân cái biểu tượng. Cũng như khi nói chim bồ câubiểu tượng cho hoà bình, dĩ nhiên hoà bình không có nghĩa là chim bồ câu. Và như thế, thông qua cách trình bày của ngôn ngữ biểu tượng, cái được biểu tượng sẽ không còn bịđóng khung vào một phạm trù giới hạn nào hết. Từđây, người thọ trì Pháp Hoa tuỳ vào năng lực của mình mà có thể tiếp nhận giáo huấn linh diệu của Phậtmột cách sinh động, cũng như có thể lĩnh hội được cái vô biên ngay trong đời sống hữu hạn. Cái vô biên, bất khả thuyết đó chính là tri kiến Phật vốn thường tại vĩnh hằng trong mỗi chúng ta.

Hành trình xây dng biu tượng ca Pháp Hoa: Đây là một chủ đề quan trọng nhằm cắt nghĩa, giải minh những biểu tượng tâm linh nhưđã được trình bày trong kinh. Biểu tượng nào cũng có một lịch sử của nó, cho dù nó thuộc về cái thiêng liêng hay trần tục, thuộc về tôn giáo hay xã hội. Ởđâu cũng vậy, lịch sử hình thành của cái biu tượng chính là nền tảng để giải thích cho cái được biu tượng. Do đó, sự hiểu biết ít nhiều của chúng ta về kinh Pháp Hoa, dù chỉ trên mặt tri thức, đều phải dựa vào những giáo huấn của Đức Phật được nối kết suốt chiều dài lịch sử của tư tưởng Phật giáo, và được trình bày qua những bộ kinh trước đó như các kinh Nikaya hoặc A­hàm. Trong trường hợp kinh Pháp Hoa, tên kinh được biểu thị qua hình ảnh hoa sen (Diệu pháp liên hoa), và hoa sen cũng là biểu tượng cho toàn bộ triết lý Pháp hoa. Do đó, ý nghĩa hoa sen trong kinh Pháp Hoa mà ngay nay chúng ta có được dĩ nhiênliên hệ chặt chẽ với ý nghĩa hoa sen trong các kinh từ thời nguyên thỉ, như kinh Pháp Cú chẳng hạn. Để hiểu biết chính xác vềý nghĩacủa một biểu tượng như hoa sen, trong trường hợp này, các nhà nghiên cứu về Pháp Hoa đã viện dẫn các chú giải vềý nghĩa hoa sen ngay từ trong các chuyện tích về cuộc đời của Đức Phật, đến các kinh Nikaya và các luận thư của Đại thừa sau này. Hơn thế nữa, các lĩnh vực thuộc về văn hoá và văn học liên quan đến hình tượng hoa sen trong thực tế tại Ấn Độ cũng đã được bàn đến trong việc giải thích ý nghĩa tên kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này ở phần sau.

Về mặt tâm linh, hoa sen là một trong những biểu tượng phổ biến nhất của Đạo phật, có mặt từ sự ra đời của Đức Phật lịch sử cho đến trong tất cả các thể loại kinh điểnvăn học Phật giáo. Cho đến thời đại của kinh Pháp Hoa, biểu tượng hoa sen trở thành đại diện cho một hệ tư tưởng đặc trưng trong dòng triết học Đại thừa, đấy là triết lý Nht tha-viên giáo. Ởđây các chuẩn mực tâm linh của nhiều truyền thống Phật giáo cũng được xây dựng qua hình ảnh hoa sen. Chúng ta có thể thấy triết lý và ý nghĩa hoa sen được thể hiện qua những cách ngôn chẳng hạn cư trn bt nhim (sống trong bùn mà không hôi tanh mùi bùn), sinh ttc niết bàn (niết bàn có mặt trong cõi sinh tử), hoa khai kiến Pht (sen nở thấy Phật) .v.v.

Nói tóm lại, những gợi ý về cách tiếp cận đối với kinh Pháp Hoa trên đây có thể giúp thêm hành trang cho chúng ta từng bước đi vào thọ trìnghiên cứu kinh. Có rất nhiều phương tiện để đi vào thực tại, lòng thành tín chân thật chắc chắn sẽ trợ duyên cho chúng ta rất nhiều. Tuy nhiên, cho đến khi nào nắm rõ ý nghĩa tiềm ẩn sâu thẳm bên trong những gì được nói ra hay được biểu thị, chúng ta mới thực sự bắt đầu tiếp nhận giáo huấn của Đức Phật một cách chính xác.

Sóng vxoá du chân không

Bng dưng thuyn đã sang sông ti bờ.

Tu vin Thượng Hnh mùa đông 2019 Khi Thiên







Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9985)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7090)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7333)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6990)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9353)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5835)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7100)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6521)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6099)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7161)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14384)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20435)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9473)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7869)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8185)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7450)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9375)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7445)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7479)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7666)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9473)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8781)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7372)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7957)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7012)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7669)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9859)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8284)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8835)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7669)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8825)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8629)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 8001)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9011)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9429)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8734)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8880)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7226)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9184)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8598)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7889)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9619)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10165)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8761)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8370)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7629)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9330)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7479)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15352)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7301)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8479)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12239)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7302)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11493)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8316)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8041)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7904)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8920)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(Xem: 7410)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
(Xem: 18179)
“Ăn Cơm Hương Tích, uống Trà Tào Khê, ngồi Thuyền Bát Nhã, ngắm Trăng Lăng Già”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant