Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Suy Niệm Về Kinh Biệt Giải Thoát Giới

21 Tháng Giêng 202119:15(Xem: 4769)
Suy Niệm Về Kinh Biệt Giải Thoát Giới

Suy Niệm Về Kinh Biệt Giải Thoát Giới

Sakya Như Bảo

 Định Nghĩa Chánh Niệm



Kinh Biệt Giải Thoát
Giới
- tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya do Tôn giả Maha Moggallāna  thuyết tại rừng Bhesakala. Nội dung bản kinh nêu rõ những đặc tính khiến vị Tỳ kheo trở nên khó nói, khó trao đổi góp ý. Tôn giả Maha Moggallāna chỉ rõ sự thiệt thòi của một người cố chấp khi ở trong Tăng đoàn sẽ không tiếp thu, học hỏi được gì từ các thiện tri thức, sống trong Phật pháp nhưng chẳng thể thưởng thức được vị đề hồ của diệu pháp. Qua đó, Ngài cũng chỉ cho các Tỳ kheo cách tự soi xét bản thân để tẩy trừ những khuyết điểm trong nhân cách.

1. Hai Hạng Người Trong Chúng

Tôn giả Maha Moggallāna phân loại hai hạng người ở trong chúng. Một hạng khó nói, khó trao đổi, góp ý; hạng còn lại thì dễ nói, dễ trao đổi và góp ý.

Hạng khó nói là những người đang vướng vào các bất thiện tâm gồm mười sáu ác pháp như sau:

(1)    Ác dục: bị những ham muốn bất chánh dẫn dắt tạo ra ác nghiệp.

(2)    Khen mình chê người: tự cho mình là đúng và phỉ báng người khác

(3)    Phẫn nộ: sân siđộc ác

(4)    Hiềm hận: thù dai và thâm hiểm

(5)    Cố chấp: ngoan cố không nhận ra lỗi lầm của mình

(6)    Thốt lời giận dữ khi bị chỉ lỗi

(7)    Chống đối: phản ứng kịch liệt mỗi khi bị cử tội

(8)    Chỉ trích: chỉ trích lại người chỉ lỗi mình

(9)    Chất vất: căn vặn lại người cử tội mình.

(10)    Nói lảng: tránh né lời buộc tội bằng cách lảng sang chuyện khác, trả lời ngoài vấn đề, hoặc buộc tội lại người khác.

(11)    Không giải thích: không giải thích tường tận hành động phạm tội của mình cho người cử tội.

(12)    Hư nguỵ, não hại: phao tin đồn nhảm, bóp méo sự thật hoặc ngụy tạo chứng cứ, vu khống để hại người.

(13)    Xan tham, tật đố: chiếm hữu riêng tư và ganh tị phước duyên của người.

(14)    Lừa đảo: dùng thủ đoạn tinh vi để gạt gẫm những người nhẹ dạ, cả tin. 

(15)    Ngã mạn: cống cao ngã mạn, tự cho mình là hay, giỏi hoặc có công lao.

(16)    Khó xả: cố chấp tư kiến, không hành hạnh buông xả.

Những ai sống trong đại chúng mà có một trong các bất thiện pháp trên sẽ bị xem là khó nói, khó dạy bảo, không được các bậc trưởng thượng giáo huấn và các bạn đồng tutrí tuệ góp ý, trao đổi. Ngược lại, vị nào tâm không có các cấu uế ấy thì được xem là người dễ thương, dễ bảo, sẽ được các bậc tôn túc chỉ dạy và pháp lữ quý mến, xây dựng.

Tôn giả Maha Moggallāna khẳng định rằng: Những người cố chấp, không kham nhẫn và không cung kính khi nghe giáo thọ chỉ dạy sẽ bị liệt vào hạng không đáng nói đến và không đáng được tin tưởng. Những vị này sẽ không nhận được sự dạy bảo, khuyên nhủ của đại chúng và do vậy sẽ chịu nhiều thiệt thòi trong đời sống phạm hạnhhiện tại cũng như tương lai. Trái lại, một vị tu sĩ dễ thương, dễ dạy bao giờ cũng có được nhiều lợi lạc khi sống trong Tăng đoàn.

2. Tự Xét Mình – Bổn Phận Thiết Yếu Của Người Xuất Gia

Mười sáu ác pháp trên, thực chất chỉ là những hình thái phát tán khác nhau của ngã chấp. Người cầu đạo giải thoát phải quyết tâm, nỗ lực vươn mình ra khỏi vũng lầy chấp ngã, loại bỏ dần những tập khí xấu ác, những phiền não rối ren, vô minh hắc ám để  thiết lập đời sống thanh cao ý vị, lợi lạc cho tự thân và tha nhân. Như thế mới không uổng phí một kiếp người. Người xuất gia chân chánh phải luôn không ngừng tự soi xét bản thân, trung thực với chính mình, mỗi bước đi đều phải thận trọng, cân nhắc trong từng ý niệm ngôn hành, từng chút một làm lung lay thành trì tự ngã, mãi cho đến khi nó được tháo gỡ hoàn toàn.

Sống trong lòng đại chúng, được các bậc trưởng thượng và chư vị đồng phạm hạnh nhắc nhỡ, chỉ bày điều hay lẽ phải để hoàn thiện nhân cách là một phước duyên rất lớn. Người bản năng chấp ngã quá sâu dày, một mực ngang bướng cố chấp không chịu tiếp thu lời góp ý, xây dựng thì dù ở lâu trong đạo cũng khó mà có được sự thăng tiến tâm linh. “Cái Tôi” càng lớn thì phiền não càng nhiều, khổ đau theo đó cũng càng lắm.

Thật ra, không cần toàn bộ mười sáu cấu uế trên có mặt, chỉ nội một ác pháp thôi - như tật đố chẳng hạn - cũng đủ để đốt cháy tâm can, khiến người ta bứt rứt, đau khổ dai dẵng không ngừng, nên nói: “bi ai lớn nhất của đời người là ghen tị”. Trong bất cứ một tập thể hay tổ chức nào, chỉ cần phảng phất bóng dáng của lòng ganh ghét là nội bộ sẽ trở nên lủng củng, suy yếu ngay. Loại cảm xúc tiêu cực này phát sinh từ sự nhận thức lệch lạc, sai lầm do thiếu hiểu biết về dòng chảy nhân quả, nghiệp báo. Ở trong đại chúng, sự có mặt của tính đố kị sẽ làm hủy hoại đạo tình pháp lữ, khiến mất đi hòa khí, dẫn đến những rạn nứt, đổ vỡ, tổn thương; gây chia rẽ, tranh chấp hoặc ngấm ngầm hoặc bùng nổ, làm phá vỡ tinh thần Lục hòa cao đẹp của Tăng đoàn.

Do tính chất đặc biệt liên hệ đến đời sống cộng đồng nên bản Kinh này được xếp vào Thiền môn Nhật tụng của Phật giáo Nam truyền và vị tu sĩ nào cũng phải một ngày ba lần tự soi rọi lại bản thân, kiểm điểm tâm ý mình theo đó mà tu tập. Nếu quán xét tự thân có một hoặc nhiều trong số mười sáu ác pháp trên thì phải nỗ lực đoạn trừ tận gốc rễ chúng. Nếu thấy người khác có những bất thiện pháp đó thì lập tức kiểm soát lại mình để phòng hộ và nguyện tránh xa những điều ấy. Bằng như sau khi quan sát thấy tâm mình không tích tập những cấu uế trên thì nên hoan hỷ, tinh tấn hơn nữa để tu tập các thiện pháp, đúng như Giới Kinh đã dạy: “Như người tự soi gương, đẹp xấu sinh vui buồn.”

3. Hòa Hợp và Tương Kính – Yếu Tố Then Chốt Tạo Nên Sự Vững Mạnh Của Tăng Đoàn

     Cộng đồng Tăng lữ lấy Lục hòa làm căn cứ. Trong Phật pháp không tồn tại thứ quyền uy thống trị, cũng chẳng có ân sủng thưởng ban. Tất cả đều dựa vào ý thức giữ gìn tịnh giới và sự tôn trọng hòa hợp với Tăng thân của mỗi cá nhân. Đã sống trong cùng một trú xứ, chúng ta không thể tách rời hay tự cô lập, lách mình ra khỏi những mối tương giao thường nhật với huynh đệ đồng tu và môi trường xã hội. Thế nên, là đệ tử xuất gia của Phật thì đều phải tuân thủ sáu pháp hòa kính. Nhờ vâng giữ Lục hòađời sống phạm hạnh của mỗi cá nhân và tập thể sẽ trở nên an ổn, thanh tịnh.

     Chư Tổ ngày xưa vẫn thường dạy: “Nhược yếu Phật pháp hưng, duy hữu Tăng tán Tăng”, nghĩa là nếu muốn Phật pháp hưng thịnh thì chỉ có Tăng khen ngợi Tăng. Thật vậy, người thế gian vẫn nói: “gia hòa vạn sự hưng”, sống trong một đoàn thể như ở chung một mái nhà, nếu nhà dột nát xêu vẹo thì ai cũng phải nguy nan. Người xuất gia nếu biết hòa thuậnkính trọng lẫn nhau, tán thán, tùy hỷ, nâng đỡ, làm thành cho nhau thì ngôi nhà Phật pháp mới ngày càng hưng thịnh, lớn mạnh và vững chắc. Bằng ngược lại, sống ngờ vực, nghi kị, khen mình chê người, hủy báng, ghen ghét, chướng ngại lẫn nhau là tiếp tay làm cho Phật pháp suy vi. Nên nói, hòa hợp và tương kính là yếu tố then chốt tạo nên sự vững mạnh của Tăng đoàn là vì thế.

Thật ra, cõi ta bà vốn đã định sẵn là “bất như ý xứ” nên làm gì có cái gọi là “vạn sự như ý” của riêng mình. Thử quan sát trên một bàn ăn nhỏ cũng đủ để thấy những ‘cái Tôi’ được thể hiện rất rõ ràng, mỗi người một ý thích, không ai giống ai. Chẳng đâu xa, chính nội thân chúng ta đây cũng thường xảy ra những mâu thuẫn, bất đồng: thứ thực phẩm mà miệng thấy thích thú thì gan và bao tử lại âm thầm phản đối, cái có lợi cho nội tạng thì vị giác thấy nản lòng. Chỉ trong một tấm thân tứ đại của mình đã tự chống trái lẫn nhau như thế huống gì đến thế giới bên ngoài mà mong lúc nào cũng đẹp lòng toại ý?

Trong Giới Kinh Đức Phật đã dạy rõ: “Đệ tử Phật phải can gián lẫn nhau, dạy bảo nhau, sám hối nhau .... hòa hợp vui vẻ không đua tranh, đồng học một Thầy, như sữa hòa với nước thì ở trong Phật pháp mới thêm lợi ích an vui.” Một người gạt bỏ tất cả những lời khuyên can, bất chấp mọi hệ lụy chỉ để khẳng định ‘cái Tôi’ giả danh thì thật là thiếu trí tuệ. Vị ấy tuy mang hình tướng sa môn mà kỳ thật tâm không hướng đến đạo quả sa môn. Người học đạo giải thoát cần luôn cảnh giác với bản thân, chớ nuôi dưỡng ‘cái Tôi’ của mình quá lớn, vì đến một lúc nào đó, nó sẽ trở thành mối hiểm họa không lường, một thế lực hắc ám, phá hủy toàn bộ đời sống tâm linh cao đẹp thì thật là đáng tiếc.

Lời Kết

Chuyện kể rằng, có một người tiểu thương nọ ngày ngày ra chợ bày bán hai cái giỏ tre đầy ắp. Một chiếc thì đậy nắp kín bưng, chiếc còn lại hoàn toàn bỏ ngỏ. Khách hàng hiếu kỳ đến xem thì thấy trong chiếc giỏ mở nắp là lũ Cua đang nhốn nháo, bò lổm ngổm, con nào cũng tranh nhau vươn lên thành giỏ để ra ngoài, nhưng cứ hễ một con vừa dợm leo lên liền lập tức bị những con khác lôi xuống. Rốt cuộc chẳng có con nào thoát ra được. Vì thế, người tiểu thương chẳng cần phí công đậy nắp.

     Chiếc giỏ thứ hai thì hoàn toàn khác hẵn, im ắng đến lạ thường. Khi người khách vừa mở giỏ ra đã vô cùng kinh ngạc khi nhìn vào cảnh tượng bên trong. Những con Rùa đang nằm chất chồng lên nhau. Con rùa lớn nhất nằm lót ở dưới cùng, những con rùa to lớn khác lẳng lặng tuần tự nằm xếp lên trên, rồi lần lượt đến những con rùa nhỏ hơn, và cuối cùng, ở tầng cao nhất là một chú rùa bé xíu, nhỏ nhất trong đoàn.

     Giỏ tre vừa bật nắp, bé rùa con nằm ở trên cùng liền bò ra ngoài trước nhất. Lần lượt những chú rùa kế tiếp đều tranh thủ bò ra ngoài, con rùa lớn thứ hai trong số đó, nhờ vào sự nâng đỡ của con rùa lớn nhất nằm dưới cùng, cố gắng hết sứcrốt cuộc cũng may mắn thoát thân. Thoáng chốc, trong giỏ chỉ còn lại  mỗi con rùa đầu đàn to lớn. Nhìn cái vẻ điềm nhiên, bình thản và cặp mắt sáng ngời của nó người khách vô cùng thắc mắc. Đành rằng rùa là một trong tứ linh, nhưng so với con người thì chúng vẫn chỉ là những sinh vật nhỏ bé, thế mà giữa giờ phút khó khăn, chúng lại có thể cư xử với nhau đầy trí tuệ, ôn hòa, dũng cảm, vị tha và cao thượng như thế! Người tiểu thương e ngại, đậy kín chiếc giỏ này là phải!

     Con rùa đầu đàn đã chấp nhận hy sinh bản thân vì lợi ích của số đông, cho dù không được ra ngoài, nhưng nó chẳng những không ân hận, tiếc nuối mà còn cảm thấy hạnh phúc với lựa chọn của mình. Những con rùa nhỏ khi thoát thân an toàn, chắc chắn đều thấm thía và biết rất rõ nhờ đâu mà mình có được tự doan ổn, lòng cảm kích bất tận sẽ khiến chúng sống xứng đáng với sự hy sinh thầm lặng và vô cùng cao cả từ trưởng bối. Cuộc sống nơi cõi tạm ta bà này, đôi khi chỉ cần hai từ ‘trân trọng’ như thế là cũng đủ. Và tán thưởng chiếc giỏ nào - Cua hay Rùa - là việc của mỗi cá nhân!

     Vạn pháp trên thế gian đều do duyên sinh, nên hiển nhiênvô ngã. Sự hiện hữu của một pháp đồng nghĩa với sự có mặt của cả pháp giới: “Nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất.” Muôn vật tương quan mật thiết với nhau như thế nên chẳng có bóng dáng hữu ngã nào có thể tồn tại độc lập, riêng lẻ giữa pháp giới duyên khởi trùng trùng. Đến một lúc, chúng ta sẽ cảm nhận sâu sắc tánh bình đẳng của các pháp, thấy rõ trong chúng sanh có mình, trong mình có chúng sanh, thành tựu hay khổ đau của người cũng chính là thành tựu và khổ đau của mình. Cho đến sơn hà đại địa, nhật nguyệt tinh tú, vô tình chủng loại, cát bụi bên đường, hay hoa đồng cỏ dại... đều hiện diện tròn đầy trong mình qua mỗi sát na sanh diệt. Từng bước quán chiếu như thế thì bản năng chấp ngã sẽ ngày một vơi dần, nhẹ bớt, vô minhkiết sử sẽ theo đó mà lần lần rơi rụng cho đến khi được phá vỡ hoàn toàn.

Từ xưa đến nay, Phật giáo vốn chú trọng đến việc thực hành chứ không phải lý thuyết suông. Bản Kinh Biệt Giải Thoát Giới, như thế, đã chỉ rõ lối đi thiết thực, giúp chúng ta tự soi rọi lại chính mình, từng bước hoàn thiện bản thân để cả TâmTướng đều xứng với danh xưng Sa môn Thích tử.

Ni viện Thiện Hòa, 19.9.2019

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15518)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13207)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19361)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24623)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15742)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37829)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13479)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13097)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17181)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13205)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17388)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21638)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13221)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14405)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12815)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13657)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28618)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23400)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34382)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28884)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32186)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11329)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12003)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26291)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17375)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14524)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34479)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13112)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12279)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13413)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40515)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26941)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14461)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13255)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13462)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12538)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13151)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12314)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11791)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12574)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17664)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12207)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12755)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18437)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14290)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12995)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11323)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12151)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13467)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10837)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11075)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10290)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28899)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25283)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26851)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25770)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18676)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23038)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34546)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32185)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant