Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Suy Niệm Về Kinh Biệt Giải Thoát Giới

21 Tháng Giêng 202119:15(Xem: 4772)
Suy Niệm Về Kinh Biệt Giải Thoát Giới

Suy Niệm Về Kinh Biệt Giải Thoát Giới

Sakya Như Bảo

 Định Nghĩa Chánh Niệm



Kinh Biệt Giải Thoát
Giới
- tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya do Tôn giả Maha Moggallāna  thuyết tại rừng Bhesakala. Nội dung bản kinh nêu rõ những đặc tính khiến vị Tỳ kheo trở nên khó nói, khó trao đổi góp ý. Tôn giả Maha Moggallāna chỉ rõ sự thiệt thòi của một người cố chấp khi ở trong Tăng đoàn sẽ không tiếp thu, học hỏi được gì từ các thiện tri thức, sống trong Phật pháp nhưng chẳng thể thưởng thức được vị đề hồ của diệu pháp. Qua đó, Ngài cũng chỉ cho các Tỳ kheo cách tự soi xét bản thân để tẩy trừ những khuyết điểm trong nhân cách.

1. Hai Hạng Người Trong Chúng

Tôn giả Maha Moggallāna phân loại hai hạng người ở trong chúng. Một hạng khó nói, khó trao đổi, góp ý; hạng còn lại thì dễ nói, dễ trao đổi và góp ý.

Hạng khó nói là những người đang vướng vào các bất thiện tâm gồm mười sáu ác pháp như sau:

(1)    Ác dục: bị những ham muốn bất chánh dẫn dắt tạo ra ác nghiệp.

(2)    Khen mình chê người: tự cho mình là đúng và phỉ báng người khác

(3)    Phẫn nộ: sân siđộc ác

(4)    Hiềm hận: thù dai và thâm hiểm

(5)    Cố chấp: ngoan cố không nhận ra lỗi lầm của mình

(6)    Thốt lời giận dữ khi bị chỉ lỗi

(7)    Chống đối: phản ứng kịch liệt mỗi khi bị cử tội

(8)    Chỉ trích: chỉ trích lại người chỉ lỗi mình

(9)    Chất vất: căn vặn lại người cử tội mình.

(10)    Nói lảng: tránh né lời buộc tội bằng cách lảng sang chuyện khác, trả lời ngoài vấn đề, hoặc buộc tội lại người khác.

(11)    Không giải thích: không giải thích tường tận hành động phạm tội của mình cho người cử tội.

(12)    Hư nguỵ, não hại: phao tin đồn nhảm, bóp méo sự thật hoặc ngụy tạo chứng cứ, vu khống để hại người.

(13)    Xan tham, tật đố: chiếm hữu riêng tư và ganh tị phước duyên của người.

(14)    Lừa đảo: dùng thủ đoạn tinh vi để gạt gẫm những người nhẹ dạ, cả tin. 

(15)    Ngã mạn: cống cao ngã mạn, tự cho mình là hay, giỏi hoặc có công lao.

(16)    Khó xả: cố chấp tư kiến, không hành hạnh buông xả.

Những ai sống trong đại chúng mà có một trong các bất thiện pháp trên sẽ bị xem là khó nói, khó dạy bảo, không được các bậc trưởng thượng giáo huấn và các bạn đồng tutrí tuệ góp ý, trao đổi. Ngược lại, vị nào tâm không có các cấu uế ấy thì được xem là người dễ thương, dễ bảo, sẽ được các bậc tôn túc chỉ dạy và pháp lữ quý mến, xây dựng.

Tôn giả Maha Moggallāna khẳng định rằng: Những người cố chấp, không kham nhẫn và không cung kính khi nghe giáo thọ chỉ dạy sẽ bị liệt vào hạng không đáng nói đến và không đáng được tin tưởng. Những vị này sẽ không nhận được sự dạy bảo, khuyên nhủ của đại chúng và do vậy sẽ chịu nhiều thiệt thòi trong đời sống phạm hạnhhiện tại cũng như tương lai. Trái lại, một vị tu sĩ dễ thương, dễ dạy bao giờ cũng có được nhiều lợi lạc khi sống trong Tăng đoàn.

2. Tự Xét Mình – Bổn Phận Thiết Yếu Của Người Xuất Gia

Mười sáu ác pháp trên, thực chất chỉ là những hình thái phát tán khác nhau của ngã chấp. Người cầu đạo giải thoát phải quyết tâm, nỗ lực vươn mình ra khỏi vũng lầy chấp ngã, loại bỏ dần những tập khí xấu ác, những phiền não rối ren, vô minh hắc ám để  thiết lập đời sống thanh cao ý vị, lợi lạc cho tự thân và tha nhân. Như thế mới không uổng phí một kiếp người. Người xuất gia chân chánh phải luôn không ngừng tự soi xét bản thân, trung thực với chính mình, mỗi bước đi đều phải thận trọng, cân nhắc trong từng ý niệm ngôn hành, từng chút một làm lung lay thành trì tự ngã, mãi cho đến khi nó được tháo gỡ hoàn toàn.

Sống trong lòng đại chúng, được các bậc trưởng thượng và chư vị đồng phạm hạnh nhắc nhỡ, chỉ bày điều hay lẽ phải để hoàn thiện nhân cách là một phước duyên rất lớn. Người bản năng chấp ngã quá sâu dày, một mực ngang bướng cố chấp không chịu tiếp thu lời góp ý, xây dựng thì dù ở lâu trong đạo cũng khó mà có được sự thăng tiến tâm linh. “Cái Tôi” càng lớn thì phiền não càng nhiều, khổ đau theo đó cũng càng lắm.

Thật ra, không cần toàn bộ mười sáu cấu uế trên có mặt, chỉ nội một ác pháp thôi - như tật đố chẳng hạn - cũng đủ để đốt cháy tâm can, khiến người ta bứt rứt, đau khổ dai dẵng không ngừng, nên nói: “bi ai lớn nhất của đời người là ghen tị”. Trong bất cứ một tập thể hay tổ chức nào, chỉ cần phảng phất bóng dáng của lòng ganh ghét là nội bộ sẽ trở nên lủng củng, suy yếu ngay. Loại cảm xúc tiêu cực này phát sinh từ sự nhận thức lệch lạc, sai lầm do thiếu hiểu biết về dòng chảy nhân quả, nghiệp báo. Ở trong đại chúng, sự có mặt của tính đố kị sẽ làm hủy hoại đạo tình pháp lữ, khiến mất đi hòa khí, dẫn đến những rạn nứt, đổ vỡ, tổn thương; gây chia rẽ, tranh chấp hoặc ngấm ngầm hoặc bùng nổ, làm phá vỡ tinh thần Lục hòa cao đẹp của Tăng đoàn.

Do tính chất đặc biệt liên hệ đến đời sống cộng đồng nên bản Kinh này được xếp vào Thiền môn Nhật tụng của Phật giáo Nam truyền và vị tu sĩ nào cũng phải một ngày ba lần tự soi rọi lại bản thân, kiểm điểm tâm ý mình theo đó mà tu tập. Nếu quán xét tự thân có một hoặc nhiều trong số mười sáu ác pháp trên thì phải nỗ lực đoạn trừ tận gốc rễ chúng. Nếu thấy người khác có những bất thiện pháp đó thì lập tức kiểm soát lại mình để phòng hộ và nguyện tránh xa những điều ấy. Bằng như sau khi quan sát thấy tâm mình không tích tập những cấu uế trên thì nên hoan hỷ, tinh tấn hơn nữa để tu tập các thiện pháp, đúng như Giới Kinh đã dạy: “Như người tự soi gương, đẹp xấu sinh vui buồn.”

3. Hòa Hợp và Tương Kính – Yếu Tố Then Chốt Tạo Nên Sự Vững Mạnh Của Tăng Đoàn

     Cộng đồng Tăng lữ lấy Lục hòa làm căn cứ. Trong Phật pháp không tồn tại thứ quyền uy thống trị, cũng chẳng có ân sủng thưởng ban. Tất cả đều dựa vào ý thức giữ gìn tịnh giới và sự tôn trọng hòa hợp với Tăng thân của mỗi cá nhân. Đã sống trong cùng một trú xứ, chúng ta không thể tách rời hay tự cô lập, lách mình ra khỏi những mối tương giao thường nhật với huynh đệ đồng tu và môi trường xã hội. Thế nên, là đệ tử xuất gia của Phật thì đều phải tuân thủ sáu pháp hòa kính. Nhờ vâng giữ Lục hòađời sống phạm hạnh của mỗi cá nhân và tập thể sẽ trở nên an ổn, thanh tịnh.

     Chư Tổ ngày xưa vẫn thường dạy: “Nhược yếu Phật pháp hưng, duy hữu Tăng tán Tăng”, nghĩa là nếu muốn Phật pháp hưng thịnh thì chỉ có Tăng khen ngợi Tăng. Thật vậy, người thế gian vẫn nói: “gia hòa vạn sự hưng”, sống trong một đoàn thể như ở chung một mái nhà, nếu nhà dột nát xêu vẹo thì ai cũng phải nguy nan. Người xuất gia nếu biết hòa thuậnkính trọng lẫn nhau, tán thán, tùy hỷ, nâng đỡ, làm thành cho nhau thì ngôi nhà Phật pháp mới ngày càng hưng thịnh, lớn mạnh và vững chắc. Bằng ngược lại, sống ngờ vực, nghi kị, khen mình chê người, hủy báng, ghen ghét, chướng ngại lẫn nhau là tiếp tay làm cho Phật pháp suy vi. Nên nói, hòa hợp và tương kính là yếu tố then chốt tạo nên sự vững mạnh của Tăng đoàn là vì thế.

Thật ra, cõi ta bà vốn đã định sẵn là “bất như ý xứ” nên làm gì có cái gọi là “vạn sự như ý” của riêng mình. Thử quan sát trên một bàn ăn nhỏ cũng đủ để thấy những ‘cái Tôi’ được thể hiện rất rõ ràng, mỗi người một ý thích, không ai giống ai. Chẳng đâu xa, chính nội thân chúng ta đây cũng thường xảy ra những mâu thuẫn, bất đồng: thứ thực phẩm mà miệng thấy thích thú thì gan và bao tử lại âm thầm phản đối, cái có lợi cho nội tạng thì vị giác thấy nản lòng. Chỉ trong một tấm thân tứ đại của mình đã tự chống trái lẫn nhau như thế huống gì đến thế giới bên ngoài mà mong lúc nào cũng đẹp lòng toại ý?

Trong Giới Kinh Đức Phật đã dạy rõ: “Đệ tử Phật phải can gián lẫn nhau, dạy bảo nhau, sám hối nhau .... hòa hợp vui vẻ không đua tranh, đồng học một Thầy, như sữa hòa với nước thì ở trong Phật pháp mới thêm lợi ích an vui.” Một người gạt bỏ tất cả những lời khuyên can, bất chấp mọi hệ lụy chỉ để khẳng định ‘cái Tôi’ giả danh thì thật là thiếu trí tuệ. Vị ấy tuy mang hình tướng sa môn mà kỳ thật tâm không hướng đến đạo quả sa môn. Người học đạo giải thoát cần luôn cảnh giác với bản thân, chớ nuôi dưỡng ‘cái Tôi’ của mình quá lớn, vì đến một lúc nào đó, nó sẽ trở thành mối hiểm họa không lường, một thế lực hắc ám, phá hủy toàn bộ đời sống tâm linh cao đẹp thì thật là đáng tiếc.

Lời Kết

Chuyện kể rằng, có một người tiểu thương nọ ngày ngày ra chợ bày bán hai cái giỏ tre đầy ắp. Một chiếc thì đậy nắp kín bưng, chiếc còn lại hoàn toàn bỏ ngỏ. Khách hàng hiếu kỳ đến xem thì thấy trong chiếc giỏ mở nắp là lũ Cua đang nhốn nháo, bò lổm ngổm, con nào cũng tranh nhau vươn lên thành giỏ để ra ngoài, nhưng cứ hễ một con vừa dợm leo lên liền lập tức bị những con khác lôi xuống. Rốt cuộc chẳng có con nào thoát ra được. Vì thế, người tiểu thương chẳng cần phí công đậy nắp.

     Chiếc giỏ thứ hai thì hoàn toàn khác hẵn, im ắng đến lạ thường. Khi người khách vừa mở giỏ ra đã vô cùng kinh ngạc khi nhìn vào cảnh tượng bên trong. Những con Rùa đang nằm chất chồng lên nhau. Con rùa lớn nhất nằm lót ở dưới cùng, những con rùa to lớn khác lẳng lặng tuần tự nằm xếp lên trên, rồi lần lượt đến những con rùa nhỏ hơn, và cuối cùng, ở tầng cao nhất là một chú rùa bé xíu, nhỏ nhất trong đoàn.

     Giỏ tre vừa bật nắp, bé rùa con nằm ở trên cùng liền bò ra ngoài trước nhất. Lần lượt những chú rùa kế tiếp đều tranh thủ bò ra ngoài, con rùa lớn thứ hai trong số đó, nhờ vào sự nâng đỡ của con rùa lớn nhất nằm dưới cùng, cố gắng hết sứcrốt cuộc cũng may mắn thoát thân. Thoáng chốc, trong giỏ chỉ còn lại  mỗi con rùa đầu đàn to lớn. Nhìn cái vẻ điềm nhiên, bình thản và cặp mắt sáng ngời của nó người khách vô cùng thắc mắc. Đành rằng rùa là một trong tứ linh, nhưng so với con người thì chúng vẫn chỉ là những sinh vật nhỏ bé, thế mà giữa giờ phút khó khăn, chúng lại có thể cư xử với nhau đầy trí tuệ, ôn hòa, dũng cảm, vị tha và cao thượng như thế! Người tiểu thương e ngại, đậy kín chiếc giỏ này là phải!

     Con rùa đầu đàn đã chấp nhận hy sinh bản thân vì lợi ích của số đông, cho dù không được ra ngoài, nhưng nó chẳng những không ân hận, tiếc nuối mà còn cảm thấy hạnh phúc với lựa chọn của mình. Những con rùa nhỏ khi thoát thân an toàn, chắc chắn đều thấm thía và biết rất rõ nhờ đâu mà mình có được tự doan ổn, lòng cảm kích bất tận sẽ khiến chúng sống xứng đáng với sự hy sinh thầm lặng và vô cùng cao cả từ trưởng bối. Cuộc sống nơi cõi tạm ta bà này, đôi khi chỉ cần hai từ ‘trân trọng’ như thế là cũng đủ. Và tán thưởng chiếc giỏ nào - Cua hay Rùa - là việc của mỗi cá nhân!

     Vạn pháp trên thế gian đều do duyên sinh, nên hiển nhiênvô ngã. Sự hiện hữu của một pháp đồng nghĩa với sự có mặt của cả pháp giới: “Nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất.” Muôn vật tương quan mật thiết với nhau như thế nên chẳng có bóng dáng hữu ngã nào có thể tồn tại độc lập, riêng lẻ giữa pháp giới duyên khởi trùng trùng. Đến một lúc, chúng ta sẽ cảm nhận sâu sắc tánh bình đẳng của các pháp, thấy rõ trong chúng sanh có mình, trong mình có chúng sanh, thành tựu hay khổ đau của người cũng chính là thành tựu và khổ đau của mình. Cho đến sơn hà đại địa, nhật nguyệt tinh tú, vô tình chủng loại, cát bụi bên đường, hay hoa đồng cỏ dại... đều hiện diện tròn đầy trong mình qua mỗi sát na sanh diệt. Từng bước quán chiếu như thế thì bản năng chấp ngã sẽ ngày một vơi dần, nhẹ bớt, vô minhkiết sử sẽ theo đó mà lần lần rơi rụng cho đến khi được phá vỡ hoàn toàn.

Từ xưa đến nay, Phật giáo vốn chú trọng đến việc thực hành chứ không phải lý thuyết suông. Bản Kinh Biệt Giải Thoát Giới, như thế, đã chỉ rõ lối đi thiết thực, giúp chúng ta tự soi rọi lại chính mình, từng bước hoàn thiện bản thân để cả TâmTướng đều xứng với danh xưng Sa môn Thích tử.

Ni viện Thiện Hòa, 19.9.2019

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12647)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12266)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11042)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10919)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13372)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11794)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13672)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11913)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11183)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12208)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12412)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20604)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12436)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12464)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11728)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11602)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22438)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13586)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29693)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11552)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16756)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12015)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16853)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12084)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17933)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12654)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13178)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14771)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22635)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10595)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14056)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13878)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13728)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13877)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13950)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14841)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13861)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18425)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22810)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15405)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17331)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22425)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14271)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12593)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11177)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17778)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13218)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13114)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18805)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17186)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13518)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12927)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14706)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14664)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15882)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13524)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27445)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13254)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16735)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21402)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant