Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sự Phân Chia Giai Cấp Trong Xã Hội Ần Độ Nhìn Từ Kinh Tiểu Duyên

03 Tháng Tám 202108:12(Xem: 3078)
Sự Phân Chia Giai Cấp Trong Xã Hội Ần Độ Nhìn Từ Kinh Tiểu Duyên

Sự Phân Chia Giai Cấp Trong Xã Hội Ần Độ
Nhìn Từ Kinh Tiểu Duyên

Tâm Lễ-Nguyễn Ngọc Luật

 
chua

Kinh Tiểu Duyên  (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp, là bản kinh thứ 27 trong Trường Bộ Kinh (Dīghanikāya), trong Trường A Hàm bản Hán tạng là bản kinh thứ 5. Kinh do Đức Phật giảng tại Savatthi cho hai đệ tử là Bà-tất-tra (Vāsettha) và Bà-la-đọa  (Bhāradvāja) , hai đệ tử này thuộc giai cấp Bà-la-môn khi xuất gia theo Phật họ bị những người Bà-la-môn khác trách mắng rằng:

-Chúng ta là dòng Bà-la-môn tối cao bậc nhất, các bậc khác là thấp hèn…cớ gì ngươi bỏ dòng thanh tịnh của mình mà vào dòng dị pháp của Cù-đàm kia? Bạch Thế Tôn, thấy chúng con ở trong Phật phápxuất gia tu đạo nên họ lấy lời lẽ như thế chê trách chúng con.”

Nhân đó Đức Phật giải thích về nguồn gốc thế giới cũng như sự phân chia giai cấp trong xã hội loài người, phủ nhận quan niệm cho rằng đẳng cấp Bà-la-môn là cao quý hơn đẳng cấp Sát-đế-lỵ là giai cấpĐức Phật xuất thân.

Theo giáo lý của Hindu giáo thì con người được phân thành bốn giai cấp chính đó là:

1 Bà-la-môn (Brahman):  Đây là những người thuộc giới tăng lữ, triết gia, học giả. Đây được xem là một giai cấp lãnh đạo tinh thần, nằm quyền lực trong lãnh vực văn hóa, tôn giáotham gia công việc triều chính để cố vấn , tổ chức nghi lễ, tế tự cho chính quyền. Họ quan niệm là được sinh ra từ miệng Phạm Thiên (Brahma – Đấng Tối cao của Hindu giáo), thay mặt cho Phạm Thiên để lãnh đạo tinh thần cho dân chúng nên có phải được các giai cấp dưới tôn kính và họ có toàn quyền hưởng thụ mọi sự sung sướng.

 2. Sát-đế-lỵ (Kshastriya): Họ là những người thuộc giai cấp quý tộc hoặc là vua chúa, quan quyền, nắm quyền về cai trị đất nước. Họ tự cho mình là sinh ra từ cánh tay Phạm Thiên, thay mặt Phạm Thiên nắm quyền thống trị dân chúng về chính trị, quân sự nên cũng phải được các giai cấp khác tôn kính.

3. Vệ-xá (Vaisya): Là tầng lớp của những người buôn bán, thợ thuyền, họ được cho là sinh ra từ bắp vế Phạm Thiên. Tuy là giai cấp bình dân nhưng họ có của cải, một số là giới giàu có trong xã hội và đóng góp sưu thuế phục vụ hai giai cấp trên nên họ cũng có một số đặc quyền và cũng được coi trọng.

4. Thủ-đà-la (Soudra): Đây là những người tiện dân, các giai cấp trên xem họ được sinh ra từ gót chân của Phạm Thiên và họ được đối xử rất tàn tệ, họ chỉ được phép làm những việc thấp kém, nặng nhọc để phục vụ cho các giai cấp trên.

Ngoài ra còn một tầng lớp thấp kém nhất không được xếp vào một giai cấp nào cà đó là Chiên-đà-la ( Ba-ri-a, Pariah), đây là một hạng người được xem là thấp kém nhất trong xã hội Ấn Độ. Họ không được xếp vào giai cấp nào cả mà họ chỉ tồn tại để  làm những công việc thấp kém, họ được sinh ra để làm nô lệ cho những giai cấp trên. Họ bị đối xữ như thú vật, thậm chí còn bị đánh đập, hành hạ khi đụng vào chéo áo hoặc nhìn vào thức ăn, hoặc vô tình đạp lên cái bóng  của những người Bà-la-môn. Sát-đế-lỵ.

Hindu giáo quan niệm rằng con người sinh ra thuộc đẳng cấp nào thì họ thuộc về đẳng cấp đó, cho dù những người thuộc các giai cấp thấp kém có phấn đấu đến đâu cũng không thể trở thành giai cấp cao hơn được. Vì thế người thuộc gia cấp Bà-la-môn, Sát-đế-lỵ thì không được kết hôn với các giai cấp dưới và như đã được sắp đặt từ trước những người thuộc giai cấp cao quý thì được làm những việc được cho là cao quý, còn những người thuộc giai cấp thấp hèn thì chỉ làm những việc thấp hèn. Điều đó được xem là bất di bất dịch không thể thay đổi được. Tất cả những điều được đề cập trên đây đều xuất phát từ bộ luật Manu của Hindu giáo với những quy định ngặt nghèo về sự phân chia giai cấp trong xã hội Ấn độ ra đời khoảng 1200 năm trước Thiên Chúa giáng sinh.

Luật Manu của Hindu giáo ghi rõ: “Một người Bà-la-môn dưới 10 tuổi cũng có thể coi là cha của một kẻ ở các đẳng cấp dưới, dầu cho kẻ ấy đã 100 tuổi”.

Thế nhưng từ khi Đức Phật thành đạotruyền bá giáo lý của ngài thì mọi quan niệm về giai cấp được cho thành trì kiên cố để những người Bà-la-môn và Sát-đế- lỵ dựa vào đó mà thống trị dân chúng đã bị đảo lộn. Đức Phật phủ nhận toàn bộ quan niệm về giai cấp trong luật Manu của Hindu giáo  đang được thực hành trong xã hội Ấn Độ thời bấy giờ. Giáo lý của Đức Phật quan niệm rằng tất cả mọi chúng sanh đều bình đẳng, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và có khả năng thành Phật. Sự bình đẳng của giáo lý Đạo Phật được thể hiện một cách triệt để trong đời sống và mọi hành hoạt của Đức Phật, ví như trong giáo đoàn bao gồm 1250 đệ tử xuất gia của Đức Phật đều có đủ thành phần xã hội từ Bà-la-môn, đến Chiên-đà-la. Tất cả trong số họ đều được đối xử bình đẳng, cùng ngồi chung chiếu, cùng sống chung trong một tinh xá, sống với nhau trong tinh thần lục hòa cộng trụ, họ chỉ hơn nhau về mức độ tu tập và sự chứng ngộ.

Trong kinh Tiểu Duyên, Đức Phật đã giải thích về nguồn gốc cùng sự hình thành xã hội loài người. Qua đó Đức Phật khẳng định khởi thủy quả đất được hình thành chưa có một sinh vật nào tồn tại, sau một thời gian rất dài loài người xuất hiện, ban đầu chỉ thụ hưởng cuộc sống một cách tự nhiên nhưng dần dần do tham lam mà hình thành sự tư hữu và chiếm dụng. rồi từ đó nãy sinh ra những mâu thuẩn, bất đồng và tranh giành đất đai, của cải mà không có ai là người có thẩm quyền đứng ra phân xử. Vì vậy họ họp nhau và bầu ra một người có uy tín, có sức mạnh, nhan mạo đoan chính để làm trọng tài phân xử mọi sự tranh chấp trong cộng đồng gọi là  Mahāsammato (Tàu dịch là ‘Đại bình đẳng chủ). Bấy giờ họ đồng ý với nhau rằng mọi người phải đóng góp lương thực để nuôi sống vị “Đại bình đẳng chủ” mà họ tôn lên. “”Người kia thường lấy lời hay đẹp ủy lạo mọi ngườimọi người đều hoan hỷ tôn xưng rằng: Lành thay Đại vương! Lành thay Đại vương! Từ đó thế gian mới bắt đầu có danh từ vua. Lấy chánh pháp trị dân, nên gọi là Sát-lỵ và thế gian bắt đầu có tên “Sát-lỵ”( Kinh Tiểu Duyên- bản Việt dịch của HT Tuệ Sỹ). Xã hội ngày càng phức tạp, xuất hiện nhiều điều xấu ác, giành giật quyền lợi, làm nhiều điều bất thiện khiến cho có người chán ghét mà  từ bỏ cuộc sống thế tục lên rừng sâu hằng ngày khất thực, sống tỉnh lặng, thiền tịnh tu hành, xa lìa các ác pháp, đến giờ ăn thì mang bình bát đi khất thực, từ đó trong thế gian mới xuất hiện tên Bà-la-môn. Các giai cấp sau đó cũng theo nhu cầu xã hội và tính đặc thù của từng công việc mà hình thành.

Như vậy theo kinh Tiểu Duyên thì giai cấp do nhu cầu và sự chuyển hóa của con ngườixã hội mà hình thành chứ không phải được phân định từ những vị thần như trong giáo lý đạo Hindu. Có một điểm cần lưu ý là do nhu cầu thiết yếu mà con người thỏa thuận với nhau là bầu lên một vị minh chủ, làm trọng tài để phân xử các tranh chấpduy trì sự trật tự của xã hội. Như vậy từ ý thức ban đầu, những vị vua chúa được bầu lên một cách dân chủbình đẳng, được dân chúng góp tiền của để nuôi vị minh chủ này, nó  không khác gì xã hội đương đại bầu cử Tổng thống một đất nước vậy. Với luận thuyết này Đức Phật đã bác bỏ tất cả các quan niệm về giai cấp của đạo Hindu trước đây, bác bỏ quan niệm cho rằng giai cấp Bà-la-môn vốn là thượng đẳng được sinh ra từ miệng Phạm Thiên, thay mặt Phạm Thiên để thống trị loài người.

Đức Phật cũng khẳng định răng sở dĩ con người được tôn kính hay bị chê trách, khinh bỉ  là do hành vi thiện hay ác mà họ tạo tác chứ không phải là dòng dõi hoặc giai cấp mà họ xuất thân. Tất cả chúng sanh đều bình đẳng như ngài đã tuyên thuyết : “ Không có giai cấp trong giọt máu cùng đỏ và nước măt cùng mặn”.

Tâm Lễ-Nguyễn Ngọc Luật

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7414)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6347)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5952)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4734)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5659)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5827)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6106)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6585)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5922)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7022)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6629)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4751)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4906)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7671)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9796)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7496)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5299)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6407)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5400)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5816)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6384)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5686)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6394)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7049)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6261)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10623)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6656)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6140)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6699)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6092)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6471)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5497)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8221)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5715)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7544)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6238)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9643)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4050)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6378)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4155)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4295)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4742)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5296)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5255)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5800)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6749)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5534)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4486)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5324)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 4961)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4349)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6854)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4589)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8391)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7199)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8349)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
(Xem: 7469)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
(Xem: 7556)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
(Xem: 6089)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 9966)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant