Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quan Điểm Chân NhưPhật Tánh Trong Tác Phẩm Tham Đồ Hiển Quyết Của Thiền Sư Viên Chiếu

04 Tháng Tám 202108:18(Xem: 2695)
Quan Điểm Chân Như – Phật Tánh Trong Tác Phẩm Tham Đồ Hiển Quyết Của Thiền Sư Viên Chiếu
Quan Điểm Chân NhưPhật Tánh Trong Tác Phẩm
Tham Đồ Hiển Quyết Của Thiền Sư Viên Chiếu

Thích Nữ
Trung Ý

Con Đường Chư Phật Đã Dạy

Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được. Có Phật tánh chỉ là tiền đề dẫn đến thành Phật, song để nhận ra và quay trở về với Phật tánh thì không phải ai cũng có thể làm được.

Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất. Không những là bậc chân tu ngộ đạo, Thiền sư còn có tài văn chương xuất chúng. Tất cả những tác phẩm của Ngài trước tác và để lại cho đến nay chỉ còn “Tham đồ hiển quyết”, tác phẩm kết tinh từ những hương thơm cỏ lạ, khoe sắc giữa vườn văn học Thiền tông Việt Nam.

Hành trạng của Thiền sư Viên Chiếu

Theo Thiền uyển tập anh, Thiền sư Viên Chiếu (圓照) (999-1091) họ Mai, tên Trực, người Long Đàm, Phúc Đường (nay thuộc Thanh Trì, Hà Nội). Ngài là con người anh của Thái hậu Linh Cảm nhà Lý, ngay từ nhỏ đã thông minh hiếu học. Sau xuất giathọ giáo với Thiền sư Định Hương núi Ba Tiêu, rất tinh thông pháp Tam quán trong kinh Viên Giác, thâm đắc ngôn ngữ tam muội, thuyết giảng lưu loát, người đến học rất đông(1). Sau khi chứng đạo, Thiền sư trụ trì chùa Cát Tường tại Thăng Long. Tham đồ hiển quyết là một tác phẩm viết theo thể tài thoại đầu thiền ngữ. Tức là thiền sinh đặt ra câu hỏi về những vấn đề nan giải như chân như, Phật tánh, hay các vấn đề khác nữa. Tất cả được sư kiến giải bằng hình ảnh thi ca đơn giảnvô cùng thâm thúy.

Thiền sư Viên Chiếu vận dụng tinh tế những hiện tượng nghịch lý của cuộc sống hiện thực, nhằm đả thông sự trực ngộ của người hỏi. Ngài kéo tâm phóng đãng, bay bổng, miên viễn của người học đạo trở về với thực tại, nhìn sâu vào bản chất, bản thể tự tánh thanh tịnh của mỗi người. Thiền học của Ngài đặc biệt nhấn mạnh đến “tâm”: “Chú trọng đến chữ tâm, khai thác tận cùng các yếu tố thuộc về tâm chứ không đơn thuần chỉ là tìm hiểu để khai thác mặt tâm lý xã hội” (2).

Thoại đầu thiền ngữ

Tư duy thiền học tức là lối tư duy thiên về trực cảm, trực giác tâm linh. Chính nhờ khả năng trực cảm ấy, con người trực ngộ bản thể của các pháp. Khi người học trò đặt câu hỏi: “Thanh thanh thúy trúc tận chân như. Như hà thị chân như dụng? (Xanh xanh trúc biếc thảy đều chân như. Thế nào là cái dụng của chân như?), Sư đáp:

赠君千里 远

笑 把 盛 茶

“Tặng quân thiên lý viễn
Tiếu bả nhất âu trà” (3).
(Tặng người nghìn dặm xa
Cười xách một bình trà).

Đôi khi việc học đạo không đòi hỏi những điều quá cao siêu, thần bí, mà chỉ là sự cảm nhận từ những việc đơn giản, nhẹ nhàng nhưng thật sâu sắc. Bản thể của vạn pháp được Thiền sư lý giải nhẹ nhàng như việc một người đi xa nghìn dặm được ân cần cười tặng một bình trà. Đối với người học trò, bản thể chân như có mặt trong tất cả khóm trúc xanh xanh kia, nhưng vẫn chưa hiểu thế nào là dụng của chân như. Dụng là khái niệm của Phật giáo Đại Thừa chỉ tác dụng giáo hóa thế gian.

Thiền sư Viên Chiếu giải quyết vấn đề bản thể chân như của các pháp một cách đơn giản nhưng vô cùng thiện xảo, hướng tâm người học trò trở lại với thế giới hiện thực. Chân như không ở đâu xa mà vẫn luôn hiện hữu trong cuộc sống, nơi hàng trúc xanh xanh kia. Điều này nói lên rằng trong mỗi con người đều có bản thể chân như thanh tịnh, chỉ những ai dụng công tu tập, quét sạch lớp bụi vô minh mới nhận ra. Dụng của chân như giống như một ấm trà vui vẻ tặng cho người đi đường xa, giúp thêm sức mạnh vượt qua khó khăn trên đường. Hành giả muốn cảm nhận tác dụng thật sự của chân như, cần có một công phu hành trì tu tập miên mật, sống với tâm thế tự tại an nhiên. Giống như việc người khách phương xa thưởng thức một tách trà, y bỏ qua những phân biệt đối đãi về loại trà hay cách thức pha trà, mới cảm nhận được trọn vẹn hương vị của nó. Vị Tăng lại hỏi: “Nhậm ma tức không lai hà ích?” (Thế nào là uổng công đến mà không ích gì?), Sư liền đáp rằng:

谁识东啊去。

途中载白头。

“Thùy thức Đông a khứ
Đồ trung tái bạch đầu” (4).
(Ai hay đi đến gò Đông
đầu mà vẫn ruỗi rong giữa đường).

Bên trên đã khai tâm trí của người học trò về bản thể của các pháp hiện hữu, dụng của chân như Phật tánh đều tồn tại trong mỗi người chứ không phải riêng cá nhân nào. Chân như là sẵn có trong mỗi chúng sanh, ai ai cũng có thể tánh thanh tịnh, điều này khiến người học trò cho đó là điều bình thường hiển nhiên, vậy mới nói là uổng công đến mà không lợi ích gì. Tuy nhiên, người ấy lại quên rằng không phải ai cũng có thể nhận ra sự có mặt của chơn tâm thường trụ nơi chính bản thân mình.

Thiền sư Viên Chiếu chuyên trì kinh Viên Giác, vì vậy quan niệm về bản thể chân như cũng có ảnh hưởng tư tưởng của bản kinh này. Bản thể trong kinh Viên Giác chính là Viên giác diệu tâm Như Lai: “Tất cả chúng sanhmọi vật huyễn hóa đều sanh từ Viên giác diệu tâm Như Lai. Ví như hoa đốm trong hư không từ hư không mà có, hoa đốm tuy diệt mà tánh hư không không hoại. Tâm huyễn của chúng sanh lại y nơi pháp huyễn mà diệt. Pháp huyễn tâm huyễn diệt hết thì tánh giác bất động” (5).

Như vậy, bản thể là cái bất động còn biểu hiện của sự vật hiện tượng trên thế giới này chỉ là tướng của bản thể mà thôi. Hình tướng phân biệt có thể khác nhau nhưng bản thể thì đều bình đẳng như nhau. Bản thểthanh tịnh, bình đẳng, bất động nhưng liệu rằng dễ dàng nhận biết như việc chính mình không biết người chủ của mình là ai, cũng như không nhận ra bản thể chân như thì dù có rong ruỗi đi tìm sự giải thoát đến bạc đầu vẫn không tìm ra. Người tham vấn cứ thế lại hỏi một câu khác: “Nhất thiết chúng sanh, giai ngôn thị Phật. Thử lý vị minh, thỉnh sư thùy thị” (Hết thảy chúng sanh, nói mình là Phật. Chưa thấu ngọn ngành, xin thầy dìu dắt). Sư đáp:

劝君且务农桑去。

莫学他人待兔劳。

“Khuyến quân thả vụ nông tang khứ
Mạc học tha nhân đãi thố lao” (6).
(Khuyên người gắng việc nông tang
Học người chờ thỏ bên đường uổng công)

Sau 49 ngày thiền định dưới cội Bồ-đề, Đức Phật đã xác chứng rằng: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”, tức là tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và đều có khả năng thành Phật. Điều đó cho chúng ta một niềm tin mãnh liệt để bước trên con đường tu tập theo giáo lý Đức Phật đã dạy. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Tất cả chúng sanh đều có trí tuệ đức tướng của Như Lai”. Như vậy, chúng ta không còn chút nghi ngờ gì nữa về Phật tánh sẵn có trong mỗi người, chỉ là Đức Phật đã nhận ragiác ngộ hoàn toàn còn chúng ta tuy sẵn có nhưng vì vô minh phiền não che lấp nên không thể hiển lộ được bản tánh giác ngộ ấy. Ý hết thảy chúng sanh đều nói mình là Phật có lẽ là nói đến Phật nhân trong mỗi con người chứ không phải Phật quả, vì từ nhân trở thành quả đòi hỏi phải trải qua quá trình công phu tu tập hành trì. Hay nói cách khác, tất cả chúng sanh đều có sẵn Phật nhân, là hạt giống thiện lành, nếu biết tu tập theo đúng chánh đạo, hành đúng Chánh pháp, tất cả chúng sanh đều có khả năng giác ngộ, giải thoát khỏi sanh tử luân hồi, trở thành một vị Phật.

Thiền sư với kinh nghiệm chứng ngộ của mình đã khuyên học trò quay về làm những việc đồng áng thường nhật của nông phu. Ngài dùng điển tích rút từ “Thiên Ngũ đố” trong Hàn Phi Tử, kể về một người làm nông nước Tống gặp một con thỏ chạy vấp phải một gốc cây mà chết. Anh đem về làm thịt ăn. Hôm sau ra đồng, bỏ cả cày bừa, đến gốc cây ngồi đợi một con thỏ khác, nhưng cuối cùng vẫn không có con thỏ khác, ngược lại còn bị người nước Tống chê cười (7). Truyện ngụ ý rằng, chúng ta đừng phí sức trông chờ vào những sự ăn may, việc xảy ra một lần nên nghĩ sẽ luôn luôn diễn ra như thế nên trông chờ, đó là sự trông chờ hoài công.

Nắm bắt được tâm tư suy nghĩ của học trò, Thiền sư lo sợ đệ tử sẽ rơi vào tự mãn khi chấp vào câu nói “Hết thảy chúng sanh đều là Phật”, chưa chứng mà cho đã chứng sinh ra tâm lý ỷ lại, không cần tu tập, không cầu giải thoát. Cho nên Ngài mới khuyên hãy làm những việc bình thường với tâm sáng suốt tĩnh lặng, tức là “bình thường tâm thị đạo”. Đừng tìm kiếm Phật ở đâu xa xôi, Phật hiện hữu trong tâm mình, tâm thanh tịnh sáng suốt đó chính là tâm Phật. Dù làm những công việc đồng áng thường ngày trồng rau, hái trái nhưng với tâm không vọng động, không phiền não chấp trước thì đó là tâm chư Phật hiện hữu. Ngược lại, không chịu tinh tấn tu hành theo lời Phật dạy sao có thể tiến bước trên con đường giác ngộ, đạt đến Niết-bàn được. Như anh chàng ôm cây ngồi đợi thỏ, chỉ hoài công phí sức. Tăng lại thưa: “Hạnh mông sư hiển quyết, chung bất hướng tha cầu” (Ơn thầy chỉ rõ trước sau, chung quy khỏi phải tìm đâu thêm phiền). Sư đáp:

可怜遭一噎。

饥坐却忘餐。

“Khả lân tao nhất yết
Cơ tọa khước vong san” (8).
(Thương thay từng nghẹn một đôi lần
Đói lả ngồi ngây chẳng dám ăn).

Người học trò khi được Thiền sư dạy như thế, cho là đã ngộ rồi không cần đi tìm cầu ở nơi khác. Thiền sư khai ngộ bằng hình ảnh một người đói lả ngồi trước thức ăn mà chưa dám ăn, thật đáng thương. Chỉ ý của Thiền sư muốn nói đến những vị nghe rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tỏ ra tự mãn không muốn tìm cầu, không thực hành các thiện pháp, mà muốn thành Phật. Như thế thật không khác gì người đói, đói công phu tu tập theo giáo pháp Như Lai mà khao khát thành Phật. Thiền sư giảng đến đây, người học trò thốt lên rằng: “Kỷ niên đa tích năng trung bảo, kim nhật đương trường địch diện khan” (Của báu bao năm công góp nhặt, đến nay nhìn trước mắt rành rành). Sư đáp:

祇待中秋月。

却遭云雨侵。

“Chỉ đãi trung thu nguyệt
Khước tao vân vũ xâm” (9).
(Những đợi trăng trung thu
Nào hay khuất mây mù).

Nhiều năm bao công góp nhặt của báu, ngày nay trước mắt thấy rõ ràng. Câu này người học trò hỏi mà dường như không hỏi. Nghe qua câu nói của người học trò, tưởng chừng y đã ngộ, tự nhận ra chơn tâm Phật tánh trong chính mình. Nhưng Thiền sư Viên Chiếu lại nói: “Chờ mãi trăng Trung thu để thấy trăng tròn sáng nhất, nào ngờ bị mây mưa che khuất”. Nghĩa là, người học trò đã biết nơi mỗi người đều có Phật tánh thanh tịnh song chưa sáng tỏ mà bị mây vô minh che khuất, thật đáng buồn thay. Chân như Phật tính sáng suốt, thanh tịnh, tịch tĩnh, không có trong ngoài trước sau. Do đó, Thiền sư biết người học trò tâm chưa sáng nên dùng hình ảnh ví dụ khác để khai tâm mở trí.

笑他徒抱柱。

溺死向中流。

“Tiếu tha đồ bao trụ
Nịch tử hướng trung lưu” (10).
(Cười ai vịn cột cầu
Chết đuối dưới dòng sâu).

Thiền sư lại dẫn một điển tích văn học Trung Quốc, kể về anh chàng tên Vi Sinh hẹn gặp người yêu dưới cột cầu. Người con gái không đến. Chờ mãi, nước lên, Vi Sinh giữ lời hứa không bỏ chỗ hẹn, ôm cột cầu mà chết đuối (11). Ngài mượn câu chuyện để dạy cho người học trò rằng, chúng ta nhận biết Phật tánh tồn tại trong mỗi người nhưng không đồng nghĩa thành Phật. Chúng sanh ai ai cũng có Phật tánh nhưng không phải ai cũng đều thành Phật. Muốn giác ngộ thành Phật phải gia công hành trì tu tập, ngược lại nếu chấp vào như anh chàng Vi Sinh kia, thật uổng công vô ích. Nếu chấp vào Phật tánh sẵn có rồi không tu tập, không thực hành thiền định, không thực hành Chánh pháp, mong thành Phật thì quyết không có lẽ đó. Người học trò lại hỏi: “Nhậm ma tức thành Phật đa dã?” (Như thế nào là nhiều người thành Phật, ý nghĩa câu đó thế nào?). Sư đáp:

祖龙驱自止。

徐福远徒劳。

“Tổ Long khu tự chỉ
Từ Phúc viễn đồ lao” (12).
(Đường xa Từ Phúc nhọc lòng
Nữa chừng rong ruổi Tổ Long phải dừng).

Người học trò thắc mắc vì sao lại nhiều người thành Phật? Vì theo lời Phật dạy là tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có khả năng thành Phật. Thắc mắc đó được Thiền sư lý giải bằng cách dẫn câu chuyện của Tần Thủy Hoàng (Tổ Long) sai đạo sĩ Từ Phúc đi ra biển tìm cỏ trường sinh. Từ Phúc dẫn ba nghìn đồng nam, ba nghìn đồng nữ đi tìm nhưng mãi không thấy trở về. Còn Tần Thủy Hoàng vẫn ở tại quê hương của mình.

Tuy nói là tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng không phải ai cũng có thể quay trở về với Phật tánh của chính mình. Từ Phúc dụ cho người mê, cứ đi tìm cái không thật, để rồi không trở về cố hương của mình. Còn Tổ Long dụ cho người giác, tuy có sai Từ Phúc đi tìm thuốc trường nhưng vẫn ở tại quê hương. Tánh giác của mỗi người như nhau, nhưng khác nhau vì người mê thì không biết quay lại với Phật tánh của mình, mãi phiêu lưu trong biển sanh tử, còn người giác tự biết quay trở lại với tánh giác của mình. Như vậy, sao có thể nói là nhiều người thành Phật.

Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được. Có Phật tánh chỉ là tiền đề dẫn đến thành Phật, song để nhận ra và quay trở về với Phật tánh thì không phải ai cũng có thể làm được. Những lời dạy của Thiền sư Viên Chiếu về chân như, Phật tánh xuất phát từ sự thật chứng sâu xa về thiền chỉ. Tuy giống nhau về bản chất giác ngộ nhưng để đạt đến thành Phật, còn tùy vào căn cơ tu tập của mỗi chúng sanh.

Chú thích:

1.Ngô Đức Thọ – Nguyễn Thúy Nga (dịch và chú giải) (2014), Thiền uyển tập anh, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr.48.

2.Nguyễn Công Lý (2016), Văn học Phật giáo thời Lý – Trần: diện mạo và đặc điểm, tái bản lần 3, Nxb Đại học Quốc gia TP.HCM, tr.320.

3.Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.274-275.

4.Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.275.

5.Thích Nhật Quang (2019), Kinh Viên Giác giảng giải, Nxb Hồng Đức, tr.106-107.

6.Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.277.

7.Dẫn lại Lê Mạnh Thát (2002), Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam, tập 3, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, tr.402.

8.Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.277.

9.Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.277.

10.Viện Văn học (1977), Thơ Văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.277.

11.Viện Văn học (1977), Thơ Văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.292.

12.Viện Văn học (1977), Thơ Văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.278.

Tài liệu tham khảo:

1.Ngô Đức Thọ – Nguyễn Thúy Nga (dịch và chú giải) (2014), Thiền uyển tập anh, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

2.Nguyễn Công Lý (2016), Văn học Phật giáo thời Lý – Trần: diện mạo và đặc điểm, tái bản lần 3, Nxb Đại học Quốc gia TP.HCM.

3. Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

4. Thích Nhật Quang (2019), Kinh Viên Giác giảng giải, Nxb Hồng Đức.

5. Lê Mạnh Thát (2002), Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam, tập 3, Nxb TP.HCM.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8550)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5275)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5837)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7469)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6382)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5976)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4763)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5711)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5892)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6135)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6612)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5962)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7081)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6689)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4823)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4959)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7738)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9847)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7560)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5350)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6448)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5454)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5867)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6432)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5711)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6452)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7076)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6299)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10684)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6694)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6200)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6755)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6152)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6515)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5537)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8275)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5748)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7574)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6265)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9669)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4074)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6402)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4192)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4316)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4781)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5341)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5298)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5828)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6800)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5562)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4510)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5341)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 5010)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4377)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6881)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4625)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8429)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7226)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8387)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
(Xem: 7537)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant