Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tâm Tâm Làm Phật, Chốn Chốn Cõi Phật

22 Tháng Chín 202119:51(Xem: 3969)
Tâm Tâm Làm Phật, Chốn Chốn Cõi Phật

Tâm Tâm Làm Phật, Chốn Chốn Cõi Phật

Thiền Sư
Minh Châu Hương Hải (1628-1715)
Nguyễn Thế Đăng

 
Hành Trì Phật Pháp Là Gì

"Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô tr, tánh tướng tch nhiên, chng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt. Tìm thì chẳng được, b nó cũng chẳng lìa. hiện lượng thì khổ lầm rối rắm. Ngộ chân tánh thì Không - Minh rỗng suốt.

Tuy tức tâm là Phật, chỉ người chng mới biết. Nhưng có chứng có biết thì mặt trời trí huệ chìm đắm vào đất Hữu. Nếu không chiếu không ng thì mây mờ che lấp ca Không. Duy một niệm chng sanh thì mé trước sau đoạn dứt, chiếu thể độc lập, vật và ta đều Như.

Nhưng mê và ngộ lại nương dựa nhau, chân và vọng đối đãi nhau. Nếu cu chân bỏ vọng thì giống như trốn bỏ bóng làm nhc hình hài. Nếu thấu hiểu vọng tc chân thì giống như ở trong râm mát thì bóng mất. Nếu vô tâm mà soi chiếu vọng thì ý nghĩ hư vọng đều mất.

Nếu nhậm vận tịch lặng mà biết (tịch tri) thì các hạnh bèn khởi. Thế nên ngộ tịch thì không có tịch, chân tri thì không có tri. Vì Nhất Tâm là tri tịch chng hai nên khế hội lẽ mầu của không hữu dung hợp. Không trụ không bám, chng nhiếp chng thu, phải trái đều mất, chủ thể đối tượng đu dứt. Sự dứt này cũng tịch lặng thì Bát nhã hiện tin, Tâm tâm làm Phật, không một tâm nào chẳng phi là tâm Phật. Chốn chốn thành đạo, không một mảy trần nào chẳng phải là cõi Phật.

Thế n, chân và vọng, vật và ta, nêu một mà thu hết; tâm, Phật, chúng sanh vốn cùng chung một đường. Thế nên biết, thì người tùy theo các pháp, các sự vật, vật vật thì muôn ngàn sai khác nên người người chng đồng. Ngộ thì pháp tùy theo người, người người Một Trí nên dung hợp được muôn cảnh. Lời hết nghĩ dứt thì còn quả nào nhân nào nữa, th vn rng lặng thì ai đng ai khác. Chỉ  một tâm trống không sáng tỏ, tăng giảm dung hòa, giống như bông hoa trăng chiếu trong ớc, không thật mà có thể thấy. Như tấm gương vô tâm soi sáng các hình bóng trong gương. Chiếu mà thường Không vậy”.

“Chí đạo bổn hồ kỳ tâm. Tâm pháp bổn hồ vô trụ. Vô trụ tâm thể, tánh tướng tịch nhiên, phi hữu phi không, bất sanh bất diệt. Cầu chi nhi bất đắc, khứ chi nhi bất ly. Mê hiện lượng tắc hoặc khổ phấn nhiên, Ngộ chân tánh tắc không minh quách triệt. Tuy tức tâm tức Phật, duy chứng giả phương tri. Nhiên hữu chứng hữu tri, tắc huệ nhật trầm một ư hữu địa. Nhược vô chiếu vô ngộ, tắc hôn vân yểm tế ư không môn. Duy nhất niệm bất sanh, tắc tiền hậu tế đoạn, chiếu thể độc lập, vật ngã giai như.

 

Nhiên mê ngộ cánh y, chân vọng tương đãi, Nhược cầu chân khứ vọng, do khí ảnh lao hình. Nhược thể vọng tức chân, tợ xử âm tức ảnh. Nhược vô tâm vọng chiếu, tắc vọng lự đô quyên.

Nhược nhậm vận tịch tri, tắc chúng hạnh viên khởi. Thị dĩ, ngộ tịch vô tịch, chân tri vô tri. Dĩ tri tịch bất nhị chi nhất tâm, khế không hữu song dung chi diệu lý. Vô trụ vô trước, mạc nhiếp mạc thu, thị phi lưỡng vong, năng sở song tuyệt. Tư tuyệt diệc tịch, tắc Bát nhã hiện tiền. Tâm tâm tác Phật, vô nhất tâm nhi phi Phật tâm. Xứ xứ thành đạo, vô nhất trần nhi phi Phật quốc.

Cố chân vọng vật ngã, cử nhất toàn thu; tâm, Phật, chúng sanh, hồn nhiên tề trí. Thị tri, mê tắc nhân tùy ư pháp, pháp pháp vạn sai nhi nhân bất đồng. Ngộ tắc pháp tùy ư nhân, nhân nhân nhất tri nhi dung vạn cảnh. Ngôn cùng lự tuyệt, hà quả hà nhân. Thể bổn tịch liêu, thục đồng thục dị. Duy vong hoài hư lãng, tiêu tức xung dung, kỳ do thấu thủy nguyệt hoa, hư nhi khả kiến. Vô tâm giám tượng, chiếu nhi thường không hỷ”

 

Chí đạo” là thực tại rốt ráo, tối hậu, là bản tánh của tâm, bản tánh của sự vật. Bản tánh của tâm vốn ở nơi tâm mình, nơi tâm chúng sanh của mình.

Bản tánh của tâm, hay “tâm pháp”, “tâm thể”, hay “chân tánh” vốn vô trụ. Vô trụ là như hư không, không ở đâu cả mà không chỗ nào không có. “Chẳng phải có” vì như hư không, không có tướng gì để có thể thấy, nhưng chẳng phải không vì hư không là một thực thể. Hơn nữa, là thực thể làm nền tảng cho sự xuất hiện của mọi sự. Như hư không, “chẳng phải có chẳng phải không, tìm nó thì chẳng được, b nó cũng chẳng lìa", vì hư không thì trùm khắp và có mặt trong mỗi sự vật dầu nhỏ đến đâu. Tóm lại, bản tánh của tâm và của mọi sự là tánh Không. Và khi thấy rõ bản tánhtánh Không, thì tướng của tâm, tức là những ý nghĩ khởi từ tâm cũng là Không. Thế nên, “tánh tướng tịch nhiên”.

Nhưng tánh Không không phải là không có gì cả, không có phẩm tính nào cả. Tánh Không đi liền với sự sáng (“Không - Minh”); “Ngộ chân tánh thì Không - Minh rỗng suốt”.

Thế nhưng mê “hiện lượng”, tức là mê thực tại hiện diện trước mắt, mê thực tại Không - Minh, thì khổ lầm rối rắm, lạc vào sanh tử khổ đau.

Tc tâm là Phật", bản tánh của tâm Không - Minh này chính là Phật, “vốn ở tâm mình”. Tánh Không - Minh này là Pháp thân, là Phật, chỉ chứng mới biết. Nhưng nếu có chứng có biết, tức là có ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả thì mặt trời trí huệ chìm vào đất hữu, tức là đã biến tánh Không thành cái có. Còn nếu không chiếu không ngộ, thì cũng là mây mờ của ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả che lấp cửa Không. Không chiếu không ngộ là không có Minh, thì làm sao soi chiếu để thấy biết tánh Không - Minh.

Duy một niệm chẳng sanh” là bản tánh của tâm, là Pháp thân, trong đó “mé trước mé sau đoạn dứt”. Bản tánh này vốn vô niệm, vốn là tánh Không, trong đó dù có niệm khởi thì niệm ấy vẫn là tánh Không. Như Bát Nhã Tâm Kinh nói, “Sắc, thọ, tưởng, hành thức là Không; Không tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức", nghĩa là dầu có sự xuất hiện của sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhưng chúng vẫn là Không, vì bản tánh của chúng là Không.

Khi đã thể nhập được tánh Không, thì “mé trước mé sau dứt mất , tất cả tâm - cảnh chỉ còn là một “chiếu thể độc lập, vật - ta đều Như”. Đây là điều được nói ở sau, “Nêu một mà thu hết”. Nêu một là duy một bản tánh, một chiếu thể độc lập Không - Minh, một khi chứng ngộ được thì gồm thâu tất cả các tướng, để tất cả các tướng trở thành một bản tánh.

Nhưng mê và ngộ lại nương dựa nhau, chân và vọng đối đãi nhau”, với người chưa chứng ngộ hoàn toàn thì ngộ nhưng vẫn còn một phần mê, chân mà vẫn còn một phần vọng, chứng ngộ tánh nhưng tánh ấy vẫn còn một phần tướng ở ngoài, tánh chưa gồm thâu tất cả các tướng. Trong tình thế còn phân hai mê đối với ngộ, vọng đối với chân, tướng đối với tánh như vậy mà muốn “cầu chân mà bỏ vọng thì giống như trốn bỏ bóng làm nhọc hình hài. Nếu thể hội, thấu hiểu vọng tức chân thì giống như ở trong râm mát thì bóng mất”. Khi ấy hành giả phải đi sâu vào trí huệ Bát nhã, trí huệ tánh Không hơn nữa để thấy phần vọng, phần mê, phần tướng còn lại tức là chân, tức là ngộ, tức là tánh thì đó mới là cách thực sự giải quyết vấn đề. Tóm lại, phải thấy rõ bản tánh của phần mê, vọng, của phần tướng còn lại chính là ngộ, chân, chính là tánh, để lấy tánh làm nền tảng gồm thâu tất cả tướng. Đó là “không trốn bỏ bóng làm nhọc hình”, nghĩa là không trốn bỏ tướng bằng cách dùng tướng khác đối trị, mà vào trong râm mát thì bóng mất, nghĩa là vào hoàn toàn trong tánh thì tướng mất.

"Nếu vô tâm mà soi chiếu vọng thì ý nghĩ hư vọng đều mất". Vô tâm đây không phải là đối trị với tâm niệm, với ý nghĩ, để được vô tâm, mà vô tâm, vô niệm chính là bản tánh của tâm, là nền tảng của tâm. Ở nơi bản tánh vô tâm (“tâm thể vốn vô trụ”) mà soi chiếu vọng thì ý nghĩ vọng đều mất, như ở trong đại dương thì các làn sóng tự sanh tự diệt trong đại dương. Trụ nơi chân tánh Không - Minh mà soi chiếu vọng thì ý nghĩ vọng đều mất, đều tiêu tan trở lại vào chân tánh Không - Minh.

Những câu trên không phải là những lý luận hoặc những ý tưởng của ý thức phân biệt, mà là công phu thiền định (Chỉ), thiền quán (Quán) và thiền định thiền quán đồng thời (Chỉ Quán đồng thời) trong thời gian dài, như tiểu sử cuộc đời của Thiền sư cho thấy. Kinh Viên Giác nói: “Nếu các chúng sanh chuyên cần tu ba pháp quán. (Chỉ, Quán và Chỉ Quán đồng thời) tức gọi là Như Lai xuất hiện ở đời vậy" (Chương Bồ tát Viên Giác).

 

Nếu nhậm vận tịch tri, các hạnh bèn khởi". Nhậm vậnthành ngữ để chỉ "vô công dụng đạo", cùng nghĩa với “vô tâm” ở câu trên. Đây là “tự tánh khởi dụng”, nói theo Lục Tổ Huệ Năng trong phẩm Phó Chúc, Pháp Bảo Đàn Kinh. Nó có nghĩa là “xứng tánh làm Phật sự”, một câu trong kinh Nhật tụng chúng ta thường tụng hàng ngày. Các hạnh khởi từ tánh Không – Minh, và luôn luôn tương ưng với tánh Không – Minh, cho nên “làm Phật sự” là làm việc giải thoát.

Thế nên ngộ tịch thì không có tịch, chân tri thì không có tri”. Tịch là cái tịch lặng của tánh Không, tánh Không ấy không có tịch, không phải là hoàn toàn tịch lặng như sự chết, mà còn có tánh Minh, tánh sáng sống động. Chân tritrí huệ chân thật, trí huệ này không có cái biết của thức phân biệt để bị lạc vào sanh tử.

nhất tâm là tri - tịch chẳng hai, cho nên khế hội lẽ mầu của không - hữu dung hợp". Nhất tâmbản tánh của tâm, trong đó tri - tịch chẳng hai, chiếu - tịch chẳng hai, Minh - Không chẳng hai, cho nên khế hợp, khế hội, thấu hiểu không - hữu dung hợp. Không hay tịch là tánh Không của mọi sự và Hữu là các hiện tướng xuất hiện trong sự soi chiếu của tánh Minh, trong tánh Chiếu. Chính vì bản tâm là Không - Minh, cho nên có Không - Hữu dung hợp, tức là pháp giới Chân Không - Diệu Hữu.

Khi đã nhậm vận là an trụ hoàn toàn trong bản tánh của tâm, trong Pháp thân Không - Minh, trong “chiếu thể độc lập”, thì tự nhiênkhông trụ không bám, chẳng nhiếp chẳng thu, phải trái đều mất, chủ thể đối tượng đều dứt. Sự dứt này cũng (tự nhiên) tịch lặng thì Bát nhã hiện tiền”. Trí huệ Bát nhãtrí huệ thấy biết Pháp thân Không - Minh, hay Phật. Trí huệ Bát nhã hiện tiền nghĩa là tánh Không - Minh hoàn toàn chiếm cứ sanh tửchuyển hóa sanh tử thành Niết bàn.

Mỗi tâm mỗi tâm đều làm Phật, không một tâm nào chẳng phải là tâm Phật. Chốn chốn thành đạo, không một mảy trần (hạt bụi) nào chẳng phải là cõi nước Phật”. Khi đã đến tận nguồn tâm, hoàn toàn sống trong bản tánh của tâm hay Pháp thân Không - Minh, thì mỗi mỗi khởi tâm, mỗi mỗi tâm sanh “đều làm Phật”, đều là Pháp thân Không - Minh, không tâm nào chẳng phải là tâm Phật, không tâm nào chẳng phải là Pháp thân.

Khi ấy chốn nào nơi nào đều là “chốn chốn thành đạo”, đều là sự hiển bày của Pháp thân Không - Minh hay Tịnh độ. Tịnh độ ấy không chỉ ở cấp độ vĩ mô là sắc thanh hương vị xúc pháp của con người, mà còn ở cấp độ vi mô, trong từng hạt bụi ( mảy trần) của vũ trụ. Đây là pháp giới Chân Không - Diệu Hữu, không có cái gì, dù là một hạt bụi, có thể ra ngoài Phật và không là sự biểu lộ của Pháp thân Phật.

Để mỗi tâm mỗi tâm làm Phật, mỗi chốn mỗi chốn là cõi nước Phật, cần thấy được. “ngộ” được nền tảng của mỗi mỗi tâm, của mỗi mỗi chốn là chân tánh, là Pháp thân Không - Minh, từ đó mỗi tâm mỗi chốn lưu xuất, xuất hiện. Tin và thấy được, ngộ được nền tảng của tâm và chốn, của tâm và cảnh là Pháp thân Không Minh, thì phải tiếp tục “nhập”, nghĩa là sống sâu rộng trong Pháp thân ấy cho đến khi trọn vẹn. Quá trình Ngộ, Nhập (theo thuật ngữ của Kinh Pháp Hoa, Khai, Thị, Ngộ, Nhập) được tiến hành bằng thiền định, thiền quán, định quán đồng thời và các hạnh Bồ tát để tương ứng càng lúc càng trọn vẹn với Pháp thân Không - Minh.

 

Cho nên chân và vọng, vật và ta, nêu một mà thu hết. Tâm, Phật, chúng sanh vốn cùng chung một đường”. Đây là câu kệ trong Kinh Hoa Nghiêm, “Tâm, Phật, và chúng sanh; cả ba không sai khác" (phẩm Dạ Ma cung kệ tán, thứ 20). Cả ba cùng một bản tánh của tâm “vốn có sẳn ở tâm mình”, cùng một Nhất Tâm của toàn thể pháp giới chúng sanh. Pháp giới Chân Không - Diệu Hữu ấy là Pháp giới Nhất Chân, trong đó tất cả đều là Phật.

Thế nên biết, mê thì người tùy theo các pháp, các sự vật; các pháp thì muôn ngàn sai khác nên người người chẳng đồng. Ngộ thì pháp tùy theo người, người người Một Trí nên dung hợp được muôn cảnh”. Chạy theo các pháp, các sự vật muôn ngàn sai khác, thậm chí các pháp môn riêng biệt, bèn tạo ra đủ thứ tướng muôn ngàn sai khác của sanh tử.

Cũng từ đó mà có đủ thứ chúng sanh khác biệt, “người người chẳng đồng”. Còn nếu đưa các pháp, các sự vật trở về nguồn cội, nền tảng của chúng là Nhất Tâm, Một Trí, thì sanh tử hết phân chiatrở lại pháp giới Nhất Chân. Chính cái Một Trí, Nhất Tâm này dung hợp được muôn cảnh, dung hợp được vô số chúng sanh để tất cả cùng đồng một Phật tánh, “tâm, Phật, chúng sanh vốn cùng chung một đường".

Các tướng muôn ngàn sai khác của sanh tửchúng sanh là do thức phân biệt mà có, khi thức phân biệtđều dứt, sự dứt này cũng bình lặng thì Bát nhã hiện tiền: duy một niệm chẳng sanh thì mé trước mé sau đoạn dứt, chiếu thể độc lập, vật và ta đều Như”.

Lời hết nghĩ dứt thì còn quả nào nhân nào nữa, thể vốn rỗng lặng thì ai đồng ai khác. Chỉ một tâm trống không sáng tỏ, tăng giảm dung hòa”. Lời hết nghĩ dứt là khi thức phân biệt đã chuyển hóa thành trí vô phân biệt. Trong cảnh giới vô phân biệt của Phật, trong pháp giới Nhất Chân, quả nào cũng là quả Phật, nhân nào cũng là nhân Phật. Khi ấy pháp giới đồng một vị vàng ròng, không còn nhân riêng khác với các nhân khác, quả riêng khác với các quả khác, cho nên một nhân bằng vàng thì tất cả quả bằng vàng và tất cả nhân bằng vàng thì một quả bằng vàng. Đó là pháp giới toàn nhân toàn quả, toàn nhân Phật và toàn quả Phật.

Giống như bóng hoa trăng chiếu trong nước, không thật mà có thể thấy, Như tấm gương soi sáng các hình bóng trong gương, Chiếu mà thường Không vậy”. Những hình tướng vô vàn sai biệt của thế gian này, “không thật mà có thể thấy, như bóng trăng trong nước”, chỉ là những xuất hiện có thể thấy nhưng không thật, như huyễn như mộng. Người thấy như vậy thì giải thoát ngay khi thấy các hình tướng. Nhưng hơn nữa, chính những hình tướng xuất hiện ấy không làm che tối mặt nước, mà lại “trang nghiêm" cho mặt nước trong trẻo.

Thường trụ trong tấm gương vô tâm thì các hình bóng trong gương được soi sáng. Các hình bóng xuất hiện ấy không che mờ tấm gương mà lại còn “trang nghiêm” cho tấm gương. Các hình bóng trong gương là phương tiện Chiếu của bản tâm và tấm gương vô tâmphương diện Không của bản tâm. Thế nên, bản tâm là “Chiếu mà thường Không vậy”. "Chân tánh thì Không - Minh rỗng suốt vậy”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9313)
Học Phật Nên Biết - Tác Giả: Pháp Sư Thánh Nghiêm, Pháp Sư Ấn Thuận, Pháp Sư Kim Minh và Phương Khắc Minh; Dịch Việt: Thích Nguyên Thành
(Xem: 11465)
Kinh PHÁP CÚ là một bộ Kinh rất xưa, được xem là kinh Lời Vàng cho những ai có chí nguyện tu tâm, dưỡng tánh để tiến thân trên lộ trình hành đạo giải thoát... Thích Nữ Nguyệt Chiếu
(Xem: 7574)
Lâu nay nói đến các trường Phật họcNam Bộ, người ta thường nghĩ đến Phật học đường Nam Việt, Sài Gòn... Thích Minh Cảnh
(Xem: 12292)
Tự học tiếng Tây Tạng - Tạng Ngữ Hiện Đại - Losang Thonden, Việt dịch: Konchog Kunzang Tobgyal
(Xem: 143640)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 6969)
Với tinh thần đó, trong khi chuyển ngữ ra tiếng Việt thời nay, việc gỡ bỏ ba chữ đó là hoàn toàn hợp lẽ... Hoằng Quảng
(Xem: 11885)
Nội dung tu học Phật pháp nước ta đại bộ phận đều phát xuất từ các kinh điển Hán dịch... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 8629)
Thế giới này là một chuỗi dài nhân duyên nương tựa vào nhau mới bảo tồn sự sống... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 19958)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 9285)
Một bản ngã khi muốn có được cái gì từ người khác thường thích đóng vai một nhân vật nào đó để làm cho nhu cầu của nó được đáp ứng... Eckhart Tolle
(Xem: 10830)
Sắc Tức Là Không, Không Tức Là Sắc - Nguyên tác: Cư sĩ Lý Nhất Quang, HT Thích Thắng Hoan dịch Việt ngữ
(Xem: 13585)
Biểu tượng quốc gia của các nước như Thái Lan, Indonesia, và thủ đô Ulan Bator (Mông Cổ) là hình tượng chim thần Garuda... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 11447)
La Sát là từ được phiên âm của Rakshasa/ Raksha (Sanskrit) là một sinh vật thần thoạihình dáng, tính cách của loài người hoặc quỷ thần bất thiện trong Hindu giáo và Phật giáo... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 9363)
Ở xứ ta, sinh vật thần thoại Khẩn Na La, trong kinh văn Phật giáo là một trong “bát bộ chúng”. Trong mỹ thuật cổ, sinh vật thần thoại Kinnara này được giới nghiên cứu gọi là “Tiên nữ đầu người mình chim”... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 14472)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 7272)
Lâu nay mỗi chúng ta theo đạo Phật nhưng có nhiều điểm nghi ngờ, thấy đạo Phật hình như tiêu cực, đa số chùa chiền đều ở trên núi, cách xa thành thị... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 32493)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 13139)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 21007)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 39150)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 7137)
Trích dịch từ nguyên tác “A Complete Guide to the Buddhist Path” by Khenchen Konchog Gyaltshen, edited by Khenmo Trinlay Chödrön, Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
(Xem: 8972)
Một cơn đau đớn cực độ cũng có thể đưa đến một thể dạng giác ngộ nào đó giúp mình mở rộng tâm thức và con tim hướng vào kẻ khác.
(Xem: 6761)
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18/9/2013 đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni ... Hoang Phong
(Xem: 9771)
Bất nhị là không phải hai hay nhiều, cũng không phải một, mà là vô lượng hay không có số lượng. Số lượng là số đếm chỉ có trong thế giới tương đối, nhị nguyên... Truyền Bình
(Xem: 9482)
Thầy Tuệ Sỹ viết: “Bởi vì con cá dưới lòng sông không làm sao hiểu nổi chuyện kể đầy tính hoang đường của con rùa sau những chuyến du hành trên đất liền..." Đặng Công Hanh
(Xem: 8054)
Cứ một ngàn dải Ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới... Nhụy Nguyên
(Xem: 11802)
Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
(Xem: 16174)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 9621)
Chúng tôi hi vọng tập sách nhỏ này sẽ giúp ích phần nào cho sự tu học của đại chúng. Chúng tôi cũng mong mỏi được các bậc cao minh tôn túc chỉ bảo cho những điều sai sót mà chúng tôi biết chắc chắn là không thể nào tránh khỏi được.
(Xem: 12248)
Theo kinh điển, hai truyền thống Nam truyền và Bắc Truyền đều thừa nhận Đức Phật có đầy đủ 32 tướng quý... Thụy Nguyên
(Xem: 8813)
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đưa người ta đến một sự chuyển hóa toàn triệt và toàn diện cuộc đời sanh tử khổ đau manh mún bởi chia cắt, phân biệt, oán ghét và xung đột của mình bằng cái thấy biết chân thật của Phật... Đương Đạo
(Xem: 15586)
Giáo Khoa Phật Học (3 Tập) Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ, Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc
(Xem: 8013)
Trong khi xem kinh, nên có con mắt trạch pháp để nhận định những lời nào Phật quyền thuyết, những lời nào Phật thật thuyết, những lời nào là chính yếu, những lời nào là phụ yếu...
(Xem: 17855)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 8676)
Lương Vũ Đế, tự Tiêu Diễn, lên ngôi vào năm 37 tuổi, tại vị 49 năm, thọ 86 tuổi. Là vị vua sáng lập nên triều đại nhà Lương (502-556) trong giai đoạn Nam Bắc triều (420-589) của Trung Hoa.
(Xem: 8321)
“Nghiệp” là một danh từ triết học Ấn Độ có trước khi Đức Thích Ca xuất hiện. Ý nghĩa cơ bản của nó là “hành động” hoặc “thói quen”... Nguyễn Xuân Chiến
(Xem: 10539)
Nguyệt San Phật Giáo Việt Nam - Do Tổng hội Phật Giáo Việt Nam xuất bản năm 1956
(Xem: 15853)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 17532)
Danh từ tên gọi của Thủ Lư theo sách Trung Hoa Phật Quang Văn Hóa Thiên Phật Giáo Dụng Ngữ chép: "Thủ lư là lư hương cầm ở trên tay, còn gọi là Bỉnh hương lư, Thủ lư, Đề lư... Thích Tâm Mãn
(Xem: 7940)
Đại chúng bộbộ phái được xem là tiền thân của Phật giáo Đại thừa hoặc là bộ phái đóng góp nhiều trong lịch sử phát triển Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 13020)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 8056)
Phật dạy 20 điều khó không mang một sắc thái bi quan hay chán chường, mà nhằm chỉ dạy chúng ta phải ý thức rằng sự sống này phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống trên nền tảng của nhân quả... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 8615)
Đạo Phậtcon đường dẫn đến an vui giải thoát. Đức Phật là bậc đạo sư, là người dẫn đường chứ không phải là vị thần linh có quyền ban phước giáng họa cho ai... Hoàng Nguyên
(Xem: 9783)
Tam Nguyệt San Hải Triều Âm - Cơ quan phát khởi nền quốc học, Phật học, và Văn hóa Việt Nam do Tổng Vụ Văn Hóa GHPGVNTN chủ trương từ 1973 đến 1975
(Xem: 10363)
Mục đích duy nhấtcuối cùng của con đường học Phật, tu Phật chính là thoát khỏi sinh tử. Trên đường đi tới điểm đích ấy, nền tảng chủ yếu hướng dẫn người tu Phật xuất gia lẫn tại gia không bị lạc lối được xem là sự nghiệp trí tuệ... Đoàn Ánh Loan
(Xem: 23279)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19384)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 10068)
Tuần San Đuốc Tuệ 1965 - Cơ Quan Phát huy tinh thần Phật Giáo, Khai triển văn hóa dân tộc - Miền Vĩnh Nghiêm trong GHPGVNTN 1965
(Xem: 8269)
Đặc San Hoằng Pháp Dharmaduta - Cơ Quan Truyền Bá Chánh Pháp Của GHPGVNTN 1973
(Xem: 24215)
Từ Điển Pháp Số Tam Tạng - Nguyên tác: Pháp sư Thích Nhất Như, Cư sĩ Lê Hồng Sơn dịch
(Xem: 8863)
Thế Thân, tác giả của bộ luận này vốn là một khai sĩ có quá nhiều truyền thuyết và ít nhiều sương khói trùm lên tiểu sử của ngài, đến nỗi cho đến nay, các học giả cũng chưa xác định được Thế Thân là ai.
(Xem: 8472)
Có thể nói rằng quan điểm bình đẳng về khả năng giải thoát tâm linh do Đức Phật đưa ra có một ý nghĩa cách mạng xã hội đáng kể...
(Xem: 8016)
Những hố thẳm triết lý mà Phạm Công Thiện nhắc tới là những hố thẳm tuyệt vọng của triết lý Tây Phương khi chưa tìm ra ngỏ thoát... Quán Như
(Xem: 17773)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
(Xem: 9521)
Hãy hướng tâm vào bên trong và cố gắng tìm niềm vui ở bên trong. Chỉ khi tâm đã được kiềm chế và dẫn dắt đúng hướng thì nó mới có ích cho chủ của nó và xã hội.
(Xem: 8213)
Lôgic học Phật giáo được hình thành trước logic học Aristote gần hai trăm năm. Hệ thống lôgic của Phật giáo "thực tế" hơn và mang một chủ đích hay ứng dụng rõ rệt hơn... Hoang Phong
(Xem: 24377)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 24712)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 8419)
Triết học Trung quán kêu gọi sự chú ý của chúng ta, như một hệ thống đã tạo nên cuộc cách mạng trong đạo Phật và qua đó, toàn lĩnh vực triết học Ấn Độ.
(Xem: 8257)
Giới Thiệu Tóm Tắt Về Bộ Trung Quán Trong Tạng Luận Theo Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu ... Đào Nguyên
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant