Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Viên Ngọc Tâm: Hà Sa Cảnh Là Bồ Đề Cảnh Thiền Sư Kiều Trí Huyền (thế Kỷ 12)

22 Tháng Mười 202119:51(Xem: 2925)
Viên Ngọc Tâm: Hà Sa Cảnh Là Bồ Đề Cảnh Thiền Sư Kiều Trí Huyền (thế Kỷ 12)

Viên Ngọc Tâm: Hà Sa Cảnh Là Bồ Đề Cảnh
Thiền Sư Kiều Trí Huyền (thế Kỷ 12)

 Nguyễn Thế Đăng

hinh phat


 

Trong ngọc bí thanh diễn diệu âm
Trong đây đầy mắt lộ thiền tâm
Hà sa cảnh là Bồ đề cảnh
Nghĩ đến Bồ đề cách vạn tầm.

 

Ngọc lý bí thanh diễn diệu âm
Cá trung mãn mục lộ thiền tâm
Hà sa cảnh thị Bồ đề cảnh
Nghĩ hướng Bồ đề cách vạn tầm.

 

Đây là bài kệ Thiền sư Kiều Trí Huyền chỉ dạy cho sư Đạo Hạnh (? - 1115), khi sư thưa hỏi chân tâm, nhưng lúc ấy sư chưa hiểu ngộ được.

Sau, sư đến pháp hội của Thiền sư Sùng Phạm chùa Pháp Vân. Ở đây sư cũng hỏi, “Thế nào là chân tâm?”

Sùng Phạm nói: “Cái gì chẳng phải là chân tâm?”

Sư hoát nhiên tự nhận được. Lại hỏi: “Làm sao giữ gìn (bảo nhậm)?

Sùng Phạm đáp: “Đói ăn, khát uống”.

Sư lễ tạ, từ giã ra đi. Về sau trụ trì chùa Thiên Phúc ở núi Phật Tích, mở rộng sự chỉ dạy.

 

Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm. Viên Ngọc Tâm có nhiều đặc tính, ở đây chỉ nêu ra vài đặc tính căn bảnchúng ta có thể nhận thức được dầu mơ hồ.

- Mọi người đều có (“Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh” (Kinh Đại Bát Niết Bàn), có điều vẫn đang bị che phủ bởi những phiền não và những hiểu biết giới hạnsai lầm. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh nghĩa là tất cả chúng sanh đều tham dự, ở trong Chân tâm Phật tánh này dầu có biết hay không.

- Trong suốt, theo nghĩa trống không và trong sáng. Các kinh thường nói “tâm như hư không”. Nghĩa là chân tâm hay viên ngọc tâm này hàm chứa tất cả mọi sự, mọi xuất hiện có thể có, thân tâm con người, thế giới, chúng sanh, nhưng cũng như hư không không hề biến chất vì những xuất hiện trong đó. Hư không hay sự trống không còn có nghĩa là bao la, không giới hạn.

- Sáng tỏ. Viên ngọc ấy phải sáng, phải có ánh sáng hay ít nhất phải để cho ánh sáng xuyên qua vì nếu nó hoàn toàn tối đen thì không thể có sự xuất hiện của những ý tưởng, những sự vật, kể cả những phiền não, buồn đau của chúng sanh ở trong nó. Sự sáng tỏ ấy hình như không giới hạn vì tất cả ý tưởnghình ảnh, âm thanh… của tất cả thế giớichúng sanh đều có thể xuất hiện trong đó.

 

Con đường Phật giáo bắt đầu từ việc tin mình đang có Viên Ngọc Tâm này. Rồi thiền định thiền quán để tìm kiếm nó, cho đến khi trực tiếp thấy được nó (mà với ngài Đạo Hạnh là “tự nhận được” nó, nghĩa là thấy nó ở nơi mình). Khi đã trực tiếp thấy nó hay “xác quyết” được nó, thì liên tục giữ gìn (bảo nhậm) cho đến lúc Viên Ngọc Tâm ấy hoàn toàn của và là chính mình, nói cách khác, hoàn toàn sống trong nó.

Tất cả mọi con đường Phật giáo đều để chứng ngộ Viên Ngọc Tâm này. Trong hệ thống Kinh điển Nikaya của Nam tông, nó được gọi là “tâm giải thoáttuệ giải thoát”.

 

Bây giờ chúng ta đi vào bài kệ chỉ ra Chân Tâm của Thiền sư Kiều Trí Huyền.

Trong ngọc bí thanh diễn diệu âm”: trong viên ngọc tâm này có âm thanh bí mật diễn đạt âm kỳ diệu. Âm thanh bí mật là gì? Âm thanh bí mật là nền tảng của mọi âm thanh, đó là tánh Không, sự không có tự tánh của mọi vật. Đó là âm thanh của im lặng, âm thanh của không có âm thanh, âm thanh của tánh Không.

Âm thanh ấy trong Kinh Lăng Nghiêm nói là “thuần âm vô trần”, một trong mười bốn công đức vô uý của Bồ tát Quán Thế Âm khi đã chứng đắc hoàn toàn “Nhĩ căn viên thông”; hay là tánh nghe:

Mười là thuần âm không có trần, căn và cảnh viên dung, không có năng đối sở đối, hay khiến tất cả chúng sanh lìa các nóng giận”.

 

Trong đây đầy mắt lộ thiền tâm”. Trong viên ngọc sáng này, có tất cả mọi xuất hiện sắc tướng. Tất cả mọi hiện tướng bày lộ bản tánh của chúng, trong viên ngọc sáng gọi là Thiền tâm này, trong đó hiện tướngbản tánh là một, không phân cách.

Các hiện tướng, các hình bóng trong viên ngọc trong suốt chính là viên ngọc sáng và viên ngọc trong sáng không có ngoài các hiện tướng của nó. Đồng thời các hiện tướng chẳng phải là viên ngọc sáng: các hiện tướng có đến có đi, có còn có mất nhưng viên ngọc sáng không có đến không có đi, không có còn không có mất.

Các hiện tướng biểu lộ Thiền tâm, biểu lộ Phật tâm, nên tất cả sắc chính là sắc Phật, tất cả âm thanh chính là âm thanh Phật… Các hiện tướng không còn là những xuất hiện tạo ra sanh tử mà là những trang nghiêm cho cõi Phật.

 

Hà sa cảnh là Bồ đề cảnh”. Bồ đềgiác ngộ, là giải thoát. Viên ngọc tâm là pháp giới giải thoát, giác ngộ và vào viên ngọc tâm nghĩa là “nhập pháp giới”, như nhan đề phẩm cuối cùng của Kinh Hoa Nghiêm.

Khi vào viên ngọc tâm, nhập pháp giới thì tất cả cảnh của các giác quan (căn) bình thường chuyển hóa thành cảnh giải thoát, giác ngộ, cảnh Phật. Tại sao như thế? Vì khi ấy các giác quan đã trở lại nguồn của chúng, mà Kinh Lăng Nghiêm gọi là tánh thấy, tánh nghe… Khi ấy người ta không chỉ thấy bằng con mắt, mà tánh thấy thấy qua con mắt, khi ấy “căn và cảnh viên dung”.

Kinh Lăng Nghiêm nói, “Một căn đã về nguồn, sáu căn thành giải thoát”. Khi sáu căn thành giải thoát thì chúng thấy cảnh Bồ đề, cảnh Phật. Khi ấy tất cả cảnh trần gian sanh tử chuyển hóa thành cảnh giải thoát, cảnh Bồ đề, cảnh Phật.

 

Nghĩ đến Bồ đề cách vạn tầm”. Cảnh Bồ đề, cảnh của pháp giới Phật này là cảnh giới của trí, chứ không phải cảnh giới của thức. Cảnh giới của trí là cảnh giới của bản tánh, cảnh giới của thức là cảnh giới của hình tướng, do thức phân biệt mà thành.

Nghĩ đến Bồ đề, đây là hoạt động của thức cho nên Bồ đềtrước mắt lại đẩy ra xa cách vạn tầm và chia cắt thực tại thành vô vàn sắc tướng sai khác nhau, chống đối nhau. Kinh Lăng Già nói về trí và thức như sau:

“Đại Huệ! Thức là do chấp trước các thứ cảnh giới ngôn thuyết làm nhân mà khởi, nên thọ sanh tương tục trong các cõi…

Lại nữa, Đại Huệ! Sanh diệt là thức, chẳng sanh diệt là trí. Sa vào tướng và vô tướng, và lấy các thứ tướng hữu vô làm nhân là thức. Lìa tướngvô tướng, và lìa nhân hữu vô là trí. Có tích tập tướng là thức, không tích tập tướng là trí. Bám tướng cảnh giới là thức, chẳng bám tướng cảnh giới là trí. Ba hòa hợp tương ưng mà sanh là thức, vô ngại tương ưng tự tánh là trí. Có tướng để đắc là thức. Không có tướng để đắc là trí, vì đây là cảnh giới tự chứng thánh trí, như trăng trong nước, chẳng nhập chẳng xuất vậy”.

Thức là thấy tánh thành ra các tướng phân biệt, và trí là thấy tánh, khi ấy các tướng phân biệt của thức trở lại thành tánh. Đây là điều được gọi là “chuyển thức thành trí”. Tóm lại, phân biệt là thức. Vô phân biệt là trí. Khi không có phân biệt, người ta thấy ngay viên ngọc tâm.

 

Khi tâm đã tham thiền khá đủ, nó có thể tương ưng với nghĩa của bài kệ, tức là thực tại của viên ngọc tâm. Mỗi câu của bài kệ này đều có thể giúp thiền giả thấy và sống được trong viên ngọc tâm, tức là cảnh giới chứng ngộ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7063)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7309)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6960)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9321)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5815)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7083)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6499)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6078)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7138)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14334)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20358)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9449)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7831)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8163)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7419)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9349)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7430)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7447)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7639)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9426)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8752)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7333)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7939)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 6988)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7651)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9833)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8268)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8802)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7653)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8803)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8617)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 7979)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 8983)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9401)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8702)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8864)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7209)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9143)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8576)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7868)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9584)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10134)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8733)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8329)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7611)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9295)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7456)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15324)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7268)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8452)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12201)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7279)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11470)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8287)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8008)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7890)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8892)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(Xem: 7394)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
(Xem: 18148)
“Ăn Cơm Hương Tích, uống Trà Tào Khê, ngồi Thuyền Bát Nhã, ngắm Trăng Lăng Già”...
(Xem: 9321)
Tánh Không với hàm ý bản thể của thế giới, vạn vật đều là không, nghĩa là không có thật, không có thực thể, không có...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant